TUYỂN TẬP CÁC TRUYỆN NGẮN VỀ CÂU CHUYỆN CÁC NHÀ VẬT LÝ
Bằng sáng chế của Einstein:
Người ta luôn xem Albert Einstein là nhà vật lý lý thuyết vì ông không có đóng góp nào cho ngành vật lý ứng dụng. Vì thế người ta sẽ ngạc nhiên khi biết ông và nhà vật lý hạt nhân Hun-gary, Leo Szilard (1898 – 1964) đã trình tám phát minh liên quan đến bơm điện từ. Trong những năm 1940, Szilard ứng dụng cái bơm mới lạ này để khuấy chất làm nguội kim loại lỏng, điều mà ngày nay chúng ta gọi là phản ứng tái sinh.
Có nhiều sáng chế hơn sau khi chết: Rober H. Goddard (1882 – 1945) cha đẻ của tên lửa lỏng đã để lại 131 bằng sáng chế sau khi ông mất, nhiều hơn số sáng chế ông đưa ra khi còn sống. Trong số này có 83 ý tưởng về tên lửa và không gian
Bệnh tật:
Nhà vật lý hạt nhân người Mỹ, Robert J.Oppenheimer (1904 – 1967) người phụ trách kế hoạch Manhattan bí mật chế tạo nguyên tử, vào những năm 1920 được chẩn đoán bị chứng tâm thần phân lập (ngày nay chúng ta gọi là bệnh tâm thần phân liệt). Trong thời ấy bệnh này được xem là không chữa trị được nên ông phải thường xuyên vào bệnh viện.
Bệnh tật:
Nhà vũ trụ học và nhà khoa học người Anh, Stephen Haw-king (sinh năm 1942) phải chịu đựng một chứng bệnh không chữa được là bệnh sơ cứng dây thần kinh vận động, một chứng bệnh dần dần làm tê liệt toàn bộ cơ thể. Đối với những người bình thường, họ đã chịu đầu hàng căn bệnh từ lâu nhưng đối với ông thì không. Ngày nay ông vẫn còn nghiên cứu khi hầu như toàn thân đã tê liệt.
Tại sao Archimedes bị giết:
Lãnh đạo đoàn quân Roma là Marcellus, người rất than phục thiên tài toán học và khoa học người Hy Lạp, Archimedes. Vậy tại sao ông lại bị giết bởi một người lính Roma bình thường trong cuộc vây hãm thành Syracuse Hy Lạp? Điều này vẫn còn là một bí ẩn trong biên niên sử khoa học. Đã có ba cách giải thích khác nhau liên quan đến bi kịch này: Chuyện Dân gian Khoa học kể rằng khi người lính hỏi ông không trả lời vì đang suy nghĩ về toán học, nên người lính nổi giận xông vào đâm chết ông. Giai thoại thứ hai kể rằng người lính tiến đến định giết chết ông; và Archimedes nói với anh ta đừng làm thế trước khi ông chưa giải quyết xong những vấn đề của ông. Giai thoại thứ ba kể rằng Archimedes bị giết bới người lính nổi lòng tham khi anh ta tưởng những vật dụng ông đang mang tới đại tướng Roma được làm bằng vàng.
Trích Chuyện dân gian khoa học
(còn tiếp)
Nhà báo đẳng cấp quốc tế:
Nhà vật lý học người Anh, Norman Lockyer (1836 – 1920), người đặt nền móng cho ngành vật lý học thiên thể, ngay từ đầu khi còn bé ông đã khao khát trở thành nhà báo
Thật vậy, ông từng làm thư ký cho tờ War Office để mưu sinh và thường viết cho tờ Army Regulations. Sau này ông trở thành biên tập viên khoa học cho tờ tuần báo The Reader. Đỉnh cao sự nghiệp viết báo là khi ông thành lập tờ Nature với sự hỗ trợ của nhà xuất bản Alexander Macmillan năm 1869. Ngày nay tờ báo này là tuần báo quốc tế chuyên viết về khoa học. Ông viết cho tờ báo này trong vòng 25 năm. Về hình thức, tờ báo vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay.
Bước ngoặt:
Cuộc đời của nhà chế tạo dụng cụ quang học người Đức, Joseph von Fraunhofer (1787 – 1826) có một bước ngoặt làm thay đổi vận mạng. Vì là trẻ mồ côi, ông phải làm việc như một người nô lệ trong một xưởng cắt kính. Bất ngờ xưởng bị khánh kiệt và số phận của ông thật bơ vơ. Tuy nhiên cảnh ngộ bi đát của ông đã gợi sự quan tâm của người lãnh đạo vùng Bavaria. Nhà lãnh đạo đến thăm ông tại bệnh viện và giúp ông mua lại sự tự do. Từ đó trở đi Fraunhofer không bao giờ ngừng tiến bộ rồi trở thành người nổi tiếng trong ngành quang phổ học.
Bước ngoặt:
Nhà thiên văn học người Mỹ, Asaph Hall (1829 – 1907) miệt mài tìm kiếm vệ tinh của Hỏa tinh. Mặc dù đã tìm kiếm nhiều tháng trời nhưng ông vẫn không tìm ra. Thời gian tìm kiếm quá lâu khiến ông không thể chịu đựng được nữa nên quyết định bỏ cuộc. Trở về nhà ông nói cho vợ nghe rằng ông không thể tiếp tục công việc được nữa. Tuy nhiên vợ ông khuyến khích ông, bà năn nỉ ông cố tìm thêm một ngày nữa xem sao. Ông chiều ý vợ và thật kỳ lạ ngay hôm đó, ông tìm ra vệ tinh đầu tiên của Hỏa tinh. Sau này ông còn khám phá ra vệ tinh thứ hai của Hỏa tinh.
Bước ngoặt:
Nhà thiên văn học nghiệp dư người Mỹ, Lewis Swift phải làm việc ngay trong nông trại của gia đình suốt đời. Vì vào năm 1833, ông bị gãy xương hông và trở thành người tàn tật lúc 13 tuổi.
Trích Chuyện dân gian khoa học
(còn tiếp)
Chiến lợi phẩm:
Nhà vật lý học người Ả Rập Avicenna (980-1037) thường được biết đến như nhà vật lý học nổi tiếng trong thế giới Ả Rập. Cuộc đời ông luôn luôn bị đặt torng tình trạng nguy hiểm: có thể bị bắt bởi nhà cầm quyền lân bang.
Ông thường được xem như một chiến lợi phẩm chiến tranh khi một nhà cầm quyền này đánh bại một nhà cầm quyền khác trong những giai đoạn bất ổn của thế giới Ả Rập. Vì thế ông đã làm việc cho nhiều nhà lãnh đạo Ả Rập.
Xóa bỏ chế độ nô lệ: Nhà vật lý học Pháp Dominique Arago (1786-1853) người ủng hộ chế độ Cộng hòa từng tham gia tích cực trong cuộc Cách mạng tháng bảy năm 1830. Năm 1848 ông trở thành một bộ trưởng trong chính phủ mới thành lập. Một trong những chính sách ông đưa ra đã xóa bỏ chế độ nô lệ tại các thuộc địa của nước Pháp.
Thành viên quốc hội: Nhà vật lý học Ấn Độ, Meghnad Saha (1893-1956) được biết đến với những đóng góp quan trọng cho ngành vật lý thiên thể. Ông là ứng viên độc lập vùng Kolkata vào Quốc hội Ấn Độ. Ông được bầu làm thành viên Quốc hội vào năm 1952
Nhà khoa học thích sống ẩn dật: Nhà vật lý học huyền thoại người Anh, Isaac Newton cũng khá nổi tiếng vì cuộc sống ẩn dật. Tuy nhiên ông cũng từng được bầu là thành viên quốc hội năm 1689 vì trong triều đại của vua James II, ông đã tận tâm phục vụ cho trường đại học Cambridge.
Thống trị: Joseph Fourier (1768 – 1830) nhà toán học và vật lý học người Pháp được biết đến với định lý Fourier. Ông tham gia xâm chiếm Ai Cập dưới thời Bonaparte. Sau những khám phá nổi tiếng trong toán học, năm 1818 Napoleon phong cho ông chức Nam tước.
Nền vật lý Đức: Khi Aldolf Hitler và bọn Quốc xã thu tóm được quyền hành lãnh đạo nước Đức vào những năm 1930, quốc gia này nổi lên phong trào nền vật lý Đức, được những nhà vật lý nổi tiếng người Đức đưa ra. Đó là Philipp Lenard (1862-1947) và Johannes Stark (1874-1957), cả hai đã từng được giải Nobel vật lý. Những nhà khoa học này cho rằng vật lý hiện đại gồm những tư tưởng về cấu trúc lượng tử, thuyết tương đối… là nền vật lý Do Thái bởi nó được đưa ra bởi những người mà họ gọi là “Do Thái trắng”. Trong lúc đó nền vật lý Đức thuần túy dựa trên cơ học Newton kinh điển
Trích Chuyện dân gian khoa học
âu chuyện về nhà vật lý Niels Bohr
[ 31.12.2012 15:51 | 4014 lần đọc ]
Một giảng viên Đại học ở Anh đã nhờ nhà bác học Ernest Rutherford (1781 – 1937 – Giám đốc Viện hàn lâm Khoa học Hoàng gia, giải Nobel Hóa học năm 1908) đứng ra làm trọng tài cho một việc. Người giảng viên này định cho một sinh viên của mình điểm thấp về môn vật lý nhưng cậu sinh viên khẳng định rằng câu trả lời xứng đáng đạt điểm cao nhất. Cả hai người – thầy và trò – nhất trí mời trọng tài làm chứng. Người được mời là Rutherford.
Câu hỏi thi như sau: “Anh (chị) hãy giải thích, bằng cách nào có thể đo được chiều cao của ngôi nhà, sử dụng khí áp kế?”
Câu trả lời của sinh viên như sau: “Cần đem khí áp kế lên mái nhà, buộc khí áp kế vào một sợi dây dài thả xuống đất, sau đó kéo lên đo độ dài sợi dây thì sẽ biết chính xác độ cao của ngôi nhà”.
Trường hợp này quả là phức tạp, vì rằng câu trả lời hoàn toàn chính xác. Mặt khác, đây là câu hỏi thi môn vật lý nhưng câu trả lời không hề sử dụng kiến thức của vật lý.
Rutherford đề nghị cậu sinh viên trả lời một lần nữa. Nhà bác học cho 6 phút chuẩn bị và báo trước rằng, câu trả lời cần sử dụng kiến thức của môn vật lý. Năm phút trôi qua nhưng cậu sinh viên không viết gì lên tờ giấy chuẩn bị cả. Rutherford hỏi liệu có trả thi được không thì cậu sinh viên trả lời rằng có nhiều cách giải đề thi này nhưng chỉ đơn giản là cậu đã chọn cách tốt nhất.
Thế là nhà bác học đề nghị sinh viên trả lời, không đợi hết thời gian chuẩn bị. Câu trả lời mới như sau: “Cầm khí áp kế trèo lên mái nhà, ném khí áp kế xuống đất, đo thời gian rơi, sau đó dùng công thức tính ra độ cao ngôi nhà”.
Rutherford hỏi người đồng nghiệp giảng viên có hài lòng với câu trả lời như vậy không. Người này trả lời: được. Tuy vậy, cậu sinh viên nói rằng còn nhiều cách giải khác, và họ đề nghị sinh viên trả lời tiếp.
– Có nhiều cách để đo độ cao một ngôi nhà dùng khí áp kế – cậu sinh viên trả lời – Thí dụ, ta có thể chọn ngày trời nắng đo độ cao của khí áp kế và bóng của nó, đo độ dài bóng của ngôi nhà. Sau đó tìm tỉ lệ, xác định ra chiều cao của ngôi nhà.
– Tốt – Rutherford nói – còn cách nào nữa không?
– Có một cách rất đơn giản, em tin là các thầy sẽ thích. Ta trèo lên theo thang, áp khí áp kế vào tường và đánh dấu. Sau đó đếm số dấu, nhân với độ dài của khí áp kế sẽ có độ cao của ngôi nhà.
– Một cách khác phức tạp hơn – cậu sinh viên tiếp tục – ta buộc vào khí áp kế một sợi dây rồi lắc như quả lắc, xác định sức hút ở dưới móng ngôi nhà và ở trên mái nhà. Từ sự khác nhau về độ lớn của sức hút có thể tính được độ cao của ngôi nhà.
– Trong số vô vàn những phương pháp để giải quyết vấn đề trên – cậu sinh viên kết luận – theo em, có một cách đơn giản nhất: ta đem theo khí áp kế, tìm người quản lý ngôi nhà và nói với người này: “Thưa ông, tôi có một khí áp kế rất tuyệt. Tôi xin tặng nó cho ông nếu ông làm ơn nói cho tôi biết độ cao của ngôi nhà này”.
Nhà bác học Rutherford hỏi cậu sinh viên rằng quả thực có phải cậu không biết cách giải phổ biến của câu hỏi này. Cậu sinh viên thú thực rằng biết nhưng mà đã chán đến tận cổ cái cảnh ở trường nào thầy giáo cũng gán cho sinh viên cách tư duy của mình.
Cậu sinh viên trên là Niels Henrik David Bohr (1885 – 1962) – nhà vật lý Đan Mạch, giải Nobel Vật lý năm 1922.
Lời bình: Câu chuyện trên có thể có thật mà cũng có thể chỉ là do người ta hư cấu nên, nhưng đúng là suy nghĩ của người càng phức tạp thì càng khó để tìm ra cái gọi là "chân lý" nhỉ.
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2210#ixzz2Uh4cUYet
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
Người ta luôn xem Albert Einstein là nhà vật lý lý thuyết vì ông không có đóng góp nào cho ngành vật lý ứng dụng. Vì thế người ta sẽ ngạc nhiên khi biết ông và nhà vật lý hạt nhân Hun-gary, Leo Szilard (1898 – 1964) đã trình tám phát minh liên quan đến bơm điện từ. Trong những năm 1940, Szilard ứng dụng cái bơm mới lạ này để khuấy chất làm nguội kim loại lỏng, điều mà ngày nay chúng ta gọi là phản ứng tái sinh.
Có nhiều sáng chế hơn sau khi chết: Rober H. Goddard (1882 – 1945) cha đẻ của tên lửa lỏng đã để lại 131 bằng sáng chế sau khi ông mất, nhiều hơn số sáng chế ông đưa ra khi còn sống. Trong số này có 83 ý tưởng về tên lửa và không gian
Bệnh tật:
Nhà vật lý hạt nhân người Mỹ, Robert J.Oppenheimer (1904 – 1967) người phụ trách kế hoạch Manhattan bí mật chế tạo nguyên tử, vào những năm 1920 được chẩn đoán bị chứng tâm thần phân lập (ngày nay chúng ta gọi là bệnh tâm thần phân liệt). Trong thời ấy bệnh này được xem là không chữa trị được nên ông phải thường xuyên vào bệnh viện.
Bệnh tật:
Nhà vũ trụ học và nhà khoa học người Anh, Stephen Haw-king (sinh năm 1942) phải chịu đựng một chứng bệnh không chữa được là bệnh sơ cứng dây thần kinh vận động, một chứng bệnh dần dần làm tê liệt toàn bộ cơ thể. Đối với những người bình thường, họ đã chịu đầu hàng căn bệnh từ lâu nhưng đối với ông thì không. Ngày nay ông vẫn còn nghiên cứu khi hầu như toàn thân đã tê liệt.
Tại sao Archimedes bị giết:
Lãnh đạo đoàn quân Roma là Marcellus, người rất than phục thiên tài toán học và khoa học người Hy Lạp, Archimedes. Vậy tại sao ông lại bị giết bởi một người lính Roma bình thường trong cuộc vây hãm thành Syracuse Hy Lạp? Điều này vẫn còn là một bí ẩn trong biên niên sử khoa học. Đã có ba cách giải thích khác nhau liên quan đến bi kịch này: Chuyện Dân gian Khoa học kể rằng khi người lính hỏi ông không trả lời vì đang suy nghĩ về toán học, nên người lính nổi giận xông vào đâm chết ông. Giai thoại thứ hai kể rằng người lính tiến đến định giết chết ông; và Archimedes nói với anh ta đừng làm thế trước khi ông chưa giải quyết xong những vấn đề của ông. Giai thoại thứ ba kể rằng Archimedes bị giết bới người lính nổi lòng tham khi anh ta tưởng những vật dụng ông đang mang tới đại tướng Roma được làm bằng vàng.
Trích Chuyện dân gian khoa học
(còn tiếp)
Nhà báo đẳng cấp quốc tế:
Nhà vật lý học người Anh, Norman Lockyer (1836 – 1920), người đặt nền móng cho ngành vật lý học thiên thể, ngay từ đầu khi còn bé ông đã khao khát trở thành nhà báo
Thật vậy, ông từng làm thư ký cho tờ War Office để mưu sinh và thường viết cho tờ Army Regulations. Sau này ông trở thành biên tập viên khoa học cho tờ tuần báo The Reader. Đỉnh cao sự nghiệp viết báo là khi ông thành lập tờ Nature với sự hỗ trợ của nhà xuất bản Alexander Macmillan năm 1869. Ngày nay tờ báo này là tuần báo quốc tế chuyên viết về khoa học. Ông viết cho tờ báo này trong vòng 25 năm. Về hình thức, tờ báo vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay.
Bước ngoặt:
Cuộc đời của nhà chế tạo dụng cụ quang học người Đức, Joseph von Fraunhofer (1787 – 1826) có một bước ngoặt làm thay đổi vận mạng. Vì là trẻ mồ côi, ông phải làm việc như một người nô lệ trong một xưởng cắt kính. Bất ngờ xưởng bị khánh kiệt và số phận của ông thật bơ vơ. Tuy nhiên cảnh ngộ bi đát của ông đã gợi sự quan tâm của người lãnh đạo vùng Bavaria. Nhà lãnh đạo đến thăm ông tại bệnh viện và giúp ông mua lại sự tự do. Từ đó trở đi Fraunhofer không bao giờ ngừng tiến bộ rồi trở thành người nổi tiếng trong ngành quang phổ học.
Bước ngoặt:
Nhà thiên văn học người Mỹ, Asaph Hall (1829 – 1907) miệt mài tìm kiếm vệ tinh của Hỏa tinh. Mặc dù đã tìm kiếm nhiều tháng trời nhưng ông vẫn không tìm ra. Thời gian tìm kiếm quá lâu khiến ông không thể chịu đựng được nữa nên quyết định bỏ cuộc. Trở về nhà ông nói cho vợ nghe rằng ông không thể tiếp tục công việc được nữa. Tuy nhiên vợ ông khuyến khích ông, bà năn nỉ ông cố tìm thêm một ngày nữa xem sao. Ông chiều ý vợ và thật kỳ lạ ngay hôm đó, ông tìm ra vệ tinh đầu tiên của Hỏa tinh. Sau này ông còn khám phá ra vệ tinh thứ hai của Hỏa tinh.
Bước ngoặt:
Nhà thiên văn học nghiệp dư người Mỹ, Lewis Swift phải làm việc ngay trong nông trại của gia đình suốt đời. Vì vào năm 1833, ông bị gãy xương hông và trở thành người tàn tật lúc 13 tuổi.
Trích Chuyện dân gian khoa học
(còn tiếp)
Chiến lợi phẩm:
Nhà vật lý học người Ả Rập Avicenna (980-1037) thường được biết đến như nhà vật lý học nổi tiếng trong thế giới Ả Rập. Cuộc đời ông luôn luôn bị đặt torng tình trạng nguy hiểm: có thể bị bắt bởi nhà cầm quyền lân bang.
Ông thường được xem như một chiến lợi phẩm chiến tranh khi một nhà cầm quyền này đánh bại một nhà cầm quyền khác trong những giai đoạn bất ổn của thế giới Ả Rập. Vì thế ông đã làm việc cho nhiều nhà lãnh đạo Ả Rập.
Xóa bỏ chế độ nô lệ: Nhà vật lý học Pháp Dominique Arago (1786-1853) người ủng hộ chế độ Cộng hòa từng tham gia tích cực trong cuộc Cách mạng tháng bảy năm 1830. Năm 1848 ông trở thành một bộ trưởng trong chính phủ mới thành lập. Một trong những chính sách ông đưa ra đã xóa bỏ chế độ nô lệ tại các thuộc địa của nước Pháp.
Thành viên quốc hội: Nhà vật lý học Ấn Độ, Meghnad Saha (1893-1956) được biết đến với những đóng góp quan trọng cho ngành vật lý thiên thể. Ông là ứng viên độc lập vùng Kolkata vào Quốc hội Ấn Độ. Ông được bầu làm thành viên Quốc hội vào năm 1952
Nhà khoa học thích sống ẩn dật: Nhà vật lý học huyền thoại người Anh, Isaac Newton cũng khá nổi tiếng vì cuộc sống ẩn dật. Tuy nhiên ông cũng từng được bầu là thành viên quốc hội năm 1689 vì trong triều đại của vua James II, ông đã tận tâm phục vụ cho trường đại học Cambridge.
Thống trị: Joseph Fourier (1768 – 1830) nhà toán học và vật lý học người Pháp được biết đến với định lý Fourier. Ông tham gia xâm chiếm Ai Cập dưới thời Bonaparte. Sau những khám phá nổi tiếng trong toán học, năm 1818 Napoleon phong cho ông chức Nam tước.
Nền vật lý Đức: Khi Aldolf Hitler và bọn Quốc xã thu tóm được quyền hành lãnh đạo nước Đức vào những năm 1930, quốc gia này nổi lên phong trào nền vật lý Đức, được những nhà vật lý nổi tiếng người Đức đưa ra. Đó là Philipp Lenard (1862-1947) và Johannes Stark (1874-1957), cả hai đã từng được giải Nobel vật lý. Những nhà khoa học này cho rằng vật lý hiện đại gồm những tư tưởng về cấu trúc lượng tử, thuyết tương đối… là nền vật lý Do Thái bởi nó được đưa ra bởi những người mà họ gọi là “Do Thái trắng”. Trong lúc đó nền vật lý Đức thuần túy dựa trên cơ học Newton kinh điển
Trích Chuyện dân gian khoa học
âu chuyện về nhà vật lý Niels Bohr
[ 31.12.2012 15:51 | 4014 lần đọc ]
Một giảng viên Đại học ở Anh đã nhờ nhà bác học Ernest Rutherford (1781 – 1937 – Giám đốc Viện hàn lâm Khoa học Hoàng gia, giải Nobel Hóa học năm 1908) đứng ra làm trọng tài cho một việc. Người giảng viên này định cho một sinh viên của mình điểm thấp về môn vật lý nhưng cậu sinh viên khẳng định rằng câu trả lời xứng đáng đạt điểm cao nhất. Cả hai người – thầy và trò – nhất trí mời trọng tài làm chứng. Người được mời là Rutherford.
Câu hỏi thi như sau: “Anh (chị) hãy giải thích, bằng cách nào có thể đo được chiều cao của ngôi nhà, sử dụng khí áp kế?”
Câu trả lời của sinh viên như sau: “Cần đem khí áp kế lên mái nhà, buộc khí áp kế vào một sợi dây dài thả xuống đất, sau đó kéo lên đo độ dài sợi dây thì sẽ biết chính xác độ cao của ngôi nhà”.
Trường hợp này quả là phức tạp, vì rằng câu trả lời hoàn toàn chính xác. Mặt khác, đây là câu hỏi thi môn vật lý nhưng câu trả lời không hề sử dụng kiến thức của vật lý.
Rutherford đề nghị cậu sinh viên trả lời một lần nữa. Nhà bác học cho 6 phút chuẩn bị và báo trước rằng, câu trả lời cần sử dụng kiến thức của môn vật lý. Năm phút trôi qua nhưng cậu sinh viên không viết gì lên tờ giấy chuẩn bị cả. Rutherford hỏi liệu có trả thi được không thì cậu sinh viên trả lời rằng có nhiều cách giải đề thi này nhưng chỉ đơn giản là cậu đã chọn cách tốt nhất.
Thế là nhà bác học đề nghị sinh viên trả lời, không đợi hết thời gian chuẩn bị. Câu trả lời mới như sau: “Cầm khí áp kế trèo lên mái nhà, ném khí áp kế xuống đất, đo thời gian rơi, sau đó dùng công thức tính ra độ cao ngôi nhà”.
Rutherford hỏi người đồng nghiệp giảng viên có hài lòng với câu trả lời như vậy không. Người này trả lời: được. Tuy vậy, cậu sinh viên nói rằng còn nhiều cách giải khác, và họ đề nghị sinh viên trả lời tiếp.
– Có nhiều cách để đo độ cao một ngôi nhà dùng khí áp kế – cậu sinh viên trả lời – Thí dụ, ta có thể chọn ngày trời nắng đo độ cao của khí áp kế và bóng của nó, đo độ dài bóng của ngôi nhà. Sau đó tìm tỉ lệ, xác định ra chiều cao của ngôi nhà.
– Tốt – Rutherford nói – còn cách nào nữa không?
– Có một cách rất đơn giản, em tin là các thầy sẽ thích. Ta trèo lên theo thang, áp khí áp kế vào tường và đánh dấu. Sau đó đếm số dấu, nhân với độ dài của khí áp kế sẽ có độ cao của ngôi nhà.
– Một cách khác phức tạp hơn – cậu sinh viên tiếp tục – ta buộc vào khí áp kế một sợi dây rồi lắc như quả lắc, xác định sức hút ở dưới móng ngôi nhà và ở trên mái nhà. Từ sự khác nhau về độ lớn của sức hút có thể tính được độ cao của ngôi nhà.
– Trong số vô vàn những phương pháp để giải quyết vấn đề trên – cậu sinh viên kết luận – theo em, có một cách đơn giản nhất: ta đem theo khí áp kế, tìm người quản lý ngôi nhà và nói với người này: “Thưa ông, tôi có một khí áp kế rất tuyệt. Tôi xin tặng nó cho ông nếu ông làm ơn nói cho tôi biết độ cao của ngôi nhà này”.
Nhà bác học Rutherford hỏi cậu sinh viên rằng quả thực có phải cậu không biết cách giải phổ biến của câu hỏi này. Cậu sinh viên thú thực rằng biết nhưng mà đã chán đến tận cổ cái cảnh ở trường nào thầy giáo cũng gán cho sinh viên cách tư duy của mình.
Cậu sinh viên trên là Niels Henrik David Bohr (1885 – 1962) – nhà vật lý Đan Mạch, giải Nobel Vật lý năm 1922.
Lời bình: Câu chuyện trên có thể có thật mà cũng có thể chỉ là do người ta hư cấu nên, nhưng đúng là suy nghĩ của người càng phức tạp thì càng khó để tìm ra cái gọi là "chân lý" nhỉ.
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2210#ixzz2Uh4cUYet
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
âu đố của Einstein về 5 căn nhÀ
Einstein đã biên soạn bài toán đố trên vào thế kỉ trước. Ông đã khẳng định: 98% nhân loại không thể giải được nó. Bạn hãy thử giải xem nào!
1. Có 5 ngôi nhà, mỗi nhà có một màu khác nhau
2. Trong mỗi nhà ở một người có quốc tịch khác nhau
3. Mỗi cư dân chỉ thích một loại nước uống, hút thuốc một hãng và nuôi một con vật trong nhà
4. Cả 5 cư dân không có cùng thích một loại nước uống, hút thuốc cùng một hãng hay nuôi cùng một con vật trong nhà như người hàng xóm của mình.
Câu hỏi:Ai nuôi cá ?
Bạn có thêm các chỉ dẫn sau:
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1297#ixzz2Uh8fEDyI
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
1. Có 5 ngôi nhà, mỗi nhà có một màu khác nhau
2. Trong mỗi nhà ở một người có quốc tịch khác nhau
3. Mỗi cư dân chỉ thích một loại nước uống, hút thuốc một hãng và nuôi một con vật trong nhà
4. Cả 5 cư dân không có cùng thích một loại nước uống, hút thuốc cùng một hãng hay nuôi cùng một con vật trong nhà như người hàng xóm của mình.
Câu hỏi:Ai nuôi cá ?
Bạn có thêm các chỉ dẫn sau:
- Ngườì Anh ở trong nhà màu đỏ
- Ngườì Thuỵ-điển nuôi chó
- Ngườì Đan-mạch thích uống chè
- Ngôi nhà màu xanh lá cây nằm bên trái ngôi nhà màu trắng.
- Ngườì ở nhà màu xanh lá cây thích uống càfê
- Ngườì hút thuốc hiệu Pall Mall nuôi chim
- Ngườì ở nhà nằm giữa thích uống sữa.
- Ngườì ở nhà màu vàng hút thuốc hiệu Dunhill.
- Ngườì Na-uy ở nhà đầu tiên
- Ngườì hút thuốc hiệu Marlboro ở cạnh nhà ngườì có nuôi mèo
- Ngườì có nuôi ngựa ở cạnh nhà ngườì hút thuốc hiệu Dunhill
- Ngườì hút thuốc hiệu Winfield thích uống bia
- Ngườì Na-uy ở cạnh nhà màu xanh nước biên
- Ngườì Đức hút thuốc hiệu Rothmanns
- Ngườì hút thuốc hiệu Marlboro có ngườì hàng xóm thích uống nước lọc
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1297#ixzz2Uh8fEDyI
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
Vật lý và những sự thật thú vị
Vật lý luôn có cách riêng để thể hiện mình thật ấn tượng trong tự nhiên. Và đây là một số ít trong số đó trong vô vàn cách thể hiện đó.
1. Khi một con bọ chét nhảy, gia tốc của nó lớn hơn 20 lần gia tốc của tàu con thoi tại thời điểm phóng.
2. Nếu tất cả các ngôi sao trong dải Ngân hà có kích cỡ bằng hạt muối, chúng sẽ lấp đầy một bề bơi tiêu chuẩn Olympic.
3. 12 nhà du hành đã đặt chân lên mặt trăng, mang về 382 kg đá, thạch anh, cát và bụi!
4. Những con cá voi nói chuyện với nhau bằng cách tạo ra những tiếng lách cách lớn. Vì sóng âm ở những tần số này truyền rất tốt trong nước nên chúng có thể nghe thấy nhau ở những khoảng cách cỡ 200 km
5. Một màn hình TV cho 24 hình ảnh trong một giây. Vì một con ruồi có thể nhìn thấy 200 hình ảnh trong một giây, nó sẽ thấy trên TV là những hình ảnh đứng yên.
6. Mèo có thể nhìn rõ ánh sáng với cường độ bằng 1/6 cường độ mà còn người có thể cảm nhận. Đó là nhờ một lớp tế bào đặc biệt ở sau võng mạc, hoạt động như các gương, phản xạ ánh sáng lại các tế bào võng mạc
7. Năm 1936, giáo sư Alfred Gaydon phải phẫu thuật mắt sau một tai nạn. Khi mà thị lực của ông trở lại, ông phát hiện ra ông nhìn được cả ánh sáng cực tím, trong khi cảm giác của ông về các màu thông thường không hề bị ảnh hưởng!
8. Tháp Eiffel mùa hè cao thêm 15cm do giãn nở vì nhiệt
9. Một số người có 2 hay nhiều hơn các mối hàn ở răng có thể nghe được sóng AM cường độ lớn khi ở cách trạm phát cỡ 100m. Trong trường hợp này, những mối hàn ở răng chuyển giao động của sóng điện từ thành những dao động cơ học trong đầu người đó.
10. Năng lượng mà mặt truyền cho Trái Đất lớn gấp 6000 lần lượng năng lượng tiêu hao bởi con người. Lượng năng lượng từ nhiên liệu hoá thạch được sử dụng kể từ buổi đầu của nền văn minh tương đương với 30 ngày nắng đẹp.
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1262#ixzz2Uh8zVx00
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
1. Khi một con bọ chét nhảy, gia tốc của nó lớn hơn 20 lần gia tốc của tàu con thoi tại thời điểm phóng.
2. Nếu tất cả các ngôi sao trong dải Ngân hà có kích cỡ bằng hạt muối, chúng sẽ lấp đầy một bề bơi tiêu chuẩn Olympic.
3. 12 nhà du hành đã đặt chân lên mặt trăng, mang về 382 kg đá, thạch anh, cát và bụi!
4. Những con cá voi nói chuyện với nhau bằng cách tạo ra những tiếng lách cách lớn. Vì sóng âm ở những tần số này truyền rất tốt trong nước nên chúng có thể nghe thấy nhau ở những khoảng cách cỡ 200 km
5. Một màn hình TV cho 24 hình ảnh trong một giây. Vì một con ruồi có thể nhìn thấy 200 hình ảnh trong một giây, nó sẽ thấy trên TV là những hình ảnh đứng yên.
6. Mèo có thể nhìn rõ ánh sáng với cường độ bằng 1/6 cường độ mà còn người có thể cảm nhận. Đó là nhờ một lớp tế bào đặc biệt ở sau võng mạc, hoạt động như các gương, phản xạ ánh sáng lại các tế bào võng mạc
7. Năm 1936, giáo sư Alfred Gaydon phải phẫu thuật mắt sau một tai nạn. Khi mà thị lực của ông trở lại, ông phát hiện ra ông nhìn được cả ánh sáng cực tím, trong khi cảm giác của ông về các màu thông thường không hề bị ảnh hưởng!
8. Tháp Eiffel mùa hè cao thêm 15cm do giãn nở vì nhiệt
9. Một số người có 2 hay nhiều hơn các mối hàn ở răng có thể nghe được sóng AM cường độ lớn khi ở cách trạm phát cỡ 100m. Trong trường hợp này, những mối hàn ở răng chuyển giao động của sóng điện từ thành những dao động cơ học trong đầu người đó.
10. Năng lượng mà mặt truyền cho Trái Đất lớn gấp 6000 lần lượng năng lượng tiêu hao bởi con người. Lượng năng lượng từ nhiên liệu hoá thạch được sử dụng kể từ buổi đầu của nền văn minh tương đương với 30 ngày nắng đẹp.
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1262#ixzz2Uh8zVx00
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
Sai sót nhỏ làm nên phát minh lớn: Tia X (Rontgen)
Chắc chúng ta ai cũng biết Niuton nhờ quả táo
rụng mà cho ra đời một phát minh vĩ đại...Và Rơnghen_ một nhà Vật lý người Đức, cũng nhờ sai sót nhỏ mà đi đến phát minh lớn.
Ngày ngày đến phòng làm việc, Rơnghen có người phụ tá đi theo để giúp việc. Lần ấy Rơnghen đang làm 1 thí nghiệm để nghiên cứu. Thí nghiệm này sử dụng 1 hiệu điện áp rất cao. Tại đó, tình cờ có để tấm kính ảnh như vật dụng dư từ ngày này qua ngày khác.
Lệ thường trước khi rời khỏi phòng thí nghiệm người phụ tá ngắt điện ở thí nghiệm kia. Một hôm đãng trí anh ta quên mất. Hôm sau đến Rơnghen thấy tấm kính ảnh đen ngòm. Ông suy nghĩ, tìm tòi, đặt câu hỏi: TẠI SAO KÍNH ẢNH LẠI ĐEN. ..Sau 5 năm trăn trở, mất ăn mất ngủ vì câu hỏi đó, cuối cùng ông đã tìm ra được đáp án. Sở dĩ tấm kính ảnh bị đen là do tác động của 1 bức xạ không trông thấy ( nên có tên gọi là tia X), có bước sóng rất ngắn phát ra từ dòng tia Catot đập vào kim loại khối lượng nguyên tử lớn( có trong thí nghiệm). Ngày công bố kết quả, cả thành phố Beclin như 1 rừng cờ, bởi vì từ đây con người có thể chiếu điện, chụp điện. Phát minh của Rơnghen đã được áp dụng vào y học " NHÌN THẤY NHỮNG BỆNH TẬT BÊN TRONG CON NGƯỜI". Công lao của ông thật lớn, để ghi nhớ người ta đặt tên bức xạ đó là: Tia Rơnghen. Trong năm đó, 1900, Rơnghen vinh dự nhận giải thưởng Nobel với số tiền khổng lồ: 890 ngàn đola.
PMC
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=983#ixzz2Uh9M8L3T
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
rụng mà cho ra đời một phát minh vĩ đại...Và Rơnghen_ một nhà Vật lý người Đức, cũng nhờ sai sót nhỏ mà đi đến phát minh lớn.
Ngày ngày đến phòng làm việc, Rơnghen có người phụ tá đi theo để giúp việc. Lần ấy Rơnghen đang làm 1 thí nghiệm để nghiên cứu. Thí nghiệm này sử dụng 1 hiệu điện áp rất cao. Tại đó, tình cờ có để tấm kính ảnh như vật dụng dư từ ngày này qua ngày khác.
Lệ thường trước khi rời khỏi phòng thí nghiệm người phụ tá ngắt điện ở thí nghiệm kia. Một hôm đãng trí anh ta quên mất. Hôm sau đến Rơnghen thấy tấm kính ảnh đen ngòm. Ông suy nghĩ, tìm tòi, đặt câu hỏi: TẠI SAO KÍNH ẢNH LẠI ĐEN. ..Sau 5 năm trăn trở, mất ăn mất ngủ vì câu hỏi đó, cuối cùng ông đã tìm ra được đáp án. Sở dĩ tấm kính ảnh bị đen là do tác động của 1 bức xạ không trông thấy ( nên có tên gọi là tia X), có bước sóng rất ngắn phát ra từ dòng tia Catot đập vào kim loại khối lượng nguyên tử lớn( có trong thí nghiệm). Ngày công bố kết quả, cả thành phố Beclin như 1 rừng cờ, bởi vì từ đây con người có thể chiếu điện, chụp điện. Phát minh của Rơnghen đã được áp dụng vào y học " NHÌN THẤY NHỮNG BỆNH TẬT BÊN TRONG CON NGƯỜI". Công lao của ông thật lớn, để ghi nhớ người ta đặt tên bức xạ đó là: Tia Rơnghen. Trong năm đó, 1900, Rơnghen vinh dự nhận giải thưởng Nobel với số tiền khổng lồ: 890 ngàn đola.
PMC
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=983#ixzz2Uh9M8L3T
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
Sự thật về giai thoại quả táo Newton
Sự thật về giai thoại quả táo Newton
Tập bản thảo viết tay đã làm lan truyền một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của lịch sử khoa học vừa được Hội Hoàng gia Anh cho công bố trên Internet.
Người ta đồn đại với nhau rằng ngài Isaac Newton đã khám phá ra lực hấp dẫn trong
khi ngồi trong mảnh vườn nhà của mẹ ông ở Lincolnshire.
Đó là một trong những giai thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học. Chàng trai trẻ
Isaac Newton đang ngồi trong vườn nhà mình khi một quả táo rơi trúng đầu anh ta và, trong
một lóe sáng của trí tuệ tột đỉnh, anh đột ngột đi tới lí thuyết của mình về sự hấp dẫn. Câu
chuyện trên chắc chắn đã bị thêm mắm dặm muối, bởi chínhNewton
lẫn nhiều thế hệ nhà viết
truyện về ông. Nhưng từ hôm nay, bất kì ai truy cập Internet đều có thể tự tìm thấy lời giải
thích căn bản làm thế nào một quả táo rơi có thể truyền cảm hứng cho sự tìm hiểu lực hấp dẫn.
Hội Hoàng gia ởLondon
đang đưa ra công khai ở dạng kĩ thuật số một bản thảo gốc
quan trọng mô tả cách thứcNewton
nghĩ ra lí thuyết của ông về sự hấp dẫn sau khi chứng kiến
một quả táo đang rơi từ trên cây xuống trong mảnh vườn nhà của mẹ ông ởLincolnshire
, mặc
dù không có bằng chứng nào cho thấy nó rơi trúng đầu ông.
Đó là vào năm 1666, và dịch bệnh đã làm đóng cửa nhiều công sở và những cuộc hội
họp.Newtonphải bỏCambridgeđến Woolsthorpe Manor, gần Grantham ởLincolnshire
, ngôi
nhà khiêm tốn nơi ông chào đời, để chiêm nghiệm những vấn đề hóc búa mà ông đã và đang
theo đuổi ở trường đại học.
Ông đặc biệt bị ám ảnh bởi quỹ đạo của Mặt trăng xung quanh Trái đất, và cuối cùng
đã lí giải rằng tác dụng của trọng lực phải trải rộng đến những khoảng cách rất lớn. Sau khi
trông thấy làm thế nào những quả táo luôn luôn rơi thẳng đứng xuống mặt đất, ông đã bỏ ra
nhiều năm nghiên cứu cơ sở toán học chứng tỏ trọng lực giảm tỉ lệ nghịch với bình phương
khoảng cách.
Nhưng có bằng chứng nào cho thấyNewton
thật sự được truyền cảm hứng bởi một quả
táo đang rơi hay không? Ông không để lại bản viết tay nào cho thấy điều này, mặc dù có
những tư liệu khác cho rằng ông đã từng nói với những người khác như thế lúc ông đã là một
người lớn tuổi.
Các nhà sử học hướng tới một tư liệu đặc biệt viết bởi một trong những người đương
thời trẻ tuổi hơn của Newton, một nhà sưu tầm đồ cổ và là nhà tiền khảo cổ học tên gọi
William Stukeley, người đồng thời là tác giả đã viết quyển tiểu sử đầu tiên của nhà khoa học
vĩ đại người Anh, mang tựa đề Hồi kí về Cuộc đời của Ngài Isaac Newton.
Stukeley cũng sinh ra ở Lincolnshire, và đã sử dụng quan hệ này để kết bạn với
Newton
vốn khét tiếng hay gắt gỏng. Stukeley đã vài lần trò chuyện với anh bạn thâm niên
hơn kia, và hai người gặp nhau đều đặn vì là thành viên của Hội Hoàng gia, và trao đổi với
nhau. Vào một dịp đặc biệt trong năm 1726, Stukeley vàNewton
đã có một buổi ăn tối chung
với nhau ởLondon
.
“Sau buổi tối, tiết trời đang ấm áp, chúng tôi đã tản bộ ra vườn và uống trà dưới tán
một số cây táo, chỉ có ông và tôi”, Stukeley viết trong tập bản thảo viết tay kĩ càng mà Hội
Hoàng gia cho công bố.
“Giữa những bài thuyết giảng khác, ông bảo tôi, ông lại ở trong tình huống tương tự,
như trước đây khi quan điểm lực hấp dẫn xuất hiện trong đầu của ông. Tại sao quả táo đó luôn
luôn rớt thẳng đứng xuống đất, ông tự nghĩ mãi; nhân lúc một quả táo rơi xuống, khi ông ngồi
trong tư thế suy tư.
“Tại sao nó không rớt sang bên, hay rớt lên trên cao? Mà cứ luôn phải rớt xuống tâm
Trái đất? Nhất định lí do là Trái đất đã hút nó xuống. Phải có một sức mạnh hút kéo nào đó ở
vật chất. Và tổng sức mạnh hút kéo trong vật chất của Trái đất phải nằm ở tâm của Trái đất,
chứ không nằm ở bất kì chỗ nào khác của Trái đất.
“Vì thế, quả táo này có rơi vuông góc hay tiến về phía tâm ấy hay không? Nếu vật chất
theo cách đó hút lấy vật chất, thì nó phải tỉ lệ với lượng của nó. Do đó, quả táo hút lấy Trái
đất, đồng thời Trái đất hút lấy quả táo”.
Đây là bản viết chi li nhất của giai thoại quả táo rơi, nhưng nó không phải là bản viết
duy nhất từ thờiNewton
còn lại. Ông cũng đã dùng nó để tiêu khiển với John Conduitt, chồng
của cô cháu gái củaNewton
và là người trợ lí của ông tại Sở đúc tiền Hoàng gia, cơ quan do
Newton
lãnh đạo trong những năm tháng sau này của cuộc đời ông. Conduitt viết: “Vào năm
1666, một lần nữa ông rờiCambridgevề nghỉ với mẹ ông ởLincolnshire
. Trong khi đang đi
lang thang trầm tư trong vườn, thì trong đầu ông chợt xuất hiện ý tưởng rằng sức mạnh của
trọng lực (cái mang quả táo từ trên cây xuống đất) không bị hạn chế với một khoảng cách nhất
định đến Trái đất, mà sức mạnh này phải trải rộng ra xa hơn người ta thường nghĩ.
“Tại sao không cao đến Mặt trăng kia chứ, ông tự bảo mình, và nếu như thế, thì sức
mạnh đó phải ảnh hưởng đến chuyển động của mặt trăng và có lẽ duy trì quỹ đạo của nó, từ đó
ông lao vào tính toán xem kết quả của giả thiết đó sẽ là gì”.
Cả hai bản viết về tình tiết quả táo đều đượcNewton
nhắc lại khoảng 50 năm sau này.
Liệu nó có thật sự xảy ra, hay nó chỉ là một câu chuyện màNewton
đã thêm thắt hay thậm chí
là bịa ra?
“Newton
đã khéo léo mài giũa giai thoại này cho tồn tại với thời gian”, phát biểu của
Keith Moore, trưởng phòng lưu trữ tại Hội Hoàng gia. “Câu chuyện ấy nhất định có thật,
nhưng chắc là đã bị thêm bớt nhiều”. Câu chuyện quả táo phù hợp với quan điểm rằng một vật
hình quả đất bị hút về phía Trái đất. Nó còn cộng hưởng với bản viết trong kinh thánh về ba
cây kiến thức, và được biếtNewtonlà người có quan điểm tôn giáo cực đoan, ôngMoore
nói.
Tại Woolsthorpe Manor, ngày nay thuộc sở hữu quốc gia, người quản gia, Margaret
Winn, cho biết chính cây táo ấy vẫn lớn lên ở phía trước ngôi nhà, ngay trước cửa sổ phòng
ngủ củaNewton
.
“Ông đã từng kể câu chuyện ấy lúc về già nhưng bạn thật sự nghi vấn không biết nó
thật sự có xảy ra hay không nhỉ”, cô Winn, người từng buôn chuyện với những quả táo, nói.
Nhưng cho dù câu chuyện có là sức tưởng tượng đồng bóng của một ông cụ già, thì câu
chuyện quả táo rơi đã đi vào lịch sử với vai trò là “thời khắc eureka” thứ hai trong khoa học,
sau sự kiện Archimedes phát hiện ra cách xác định thể tích của các vật khi ông ở trong nhà
tắm.
Những thời khắc eureka: Làm thế nào họ ‘có được nó’
* Archimedes được cho là nhà khoa học đầu tiên hét toáng câu nói Hi Lạp "Eureka
!"
đánh dấu một bước đột phá, khi ông phát hiện ra nguyên lí của ông về sự nổi. Nhà văn La Mã
Vitruvius đã viết rằng Archimedes đang tắm khi ông nhận ra rằng lúc ông bước vào trong bồn
tắm, khối lượng cơ thể của ông thay thế cho một trọng lượng nước nhất định. Người ta nói nhà
khoa học đã nhảy ra khỏi bồn tắm và trần truồng chạy ra đường phốSyracuseởSicily
, hét
toáng lên: "Eureka
, eureka!" (Tôi tìm ra rồi!). Tính xác thực của câu chuyện này bị nghi ngờ,
vì rằng Vitruvius viết về nó gần 200 năm sau này.
* Otto Loewi, nhà sinh lí học người Đức, bỏ ra 17 năm cố gắng tìm ra bằng chứng dứt
khoát rằng các xung thần kinh được truyền bằng hóa chất, và cuối cùng đã bắt gặp sức mạnh
sáng tạo trong một đêm khi ông nằm mơ thấy mình tiến hành một thí nghiệm quan trọng sử
dụng trái tim của con ếch. Ông lập tức đi vào phòng thí nghiệm của mình thực hiện thí nghiệm
trên, để ý thấy dây thần kinh phế vị của con ếch giải phóng một hóa chất, ngày nay gọi là chất
truyền xung thần kinh acetylcholine, chất này điều khiển nhịp tim.
* Mặc dù người ta thường bảo rằng Charles Darwin đã đi tới lí thuyết của ông về sự
chọn lọc tự nhiên trong khi ở trên quần đảo Galapagos vào năm 1835, nhưng ông chỉ bắt đầu
tin vào sự tiến hóa sau khi ông trở lại Anh. Thay vì có một “thời khắcEureka
”, nhà khoa học
đã bỏ ra hai thập kỉ cân nhắc những quan sát của ông, cuối cùng trình bày lí thuyết gây tranh
cãi của ông trong quyển sách năm 1859 Về nguồn gốc của các loài.
Theo independent.co.uk
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=955#ixzz2Uh9a1QJ1
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=955#ixzz2Uh9RexiX
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
Tập bản thảo viết tay đã làm lan truyền một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của lịch sử khoa học vừa được Hội Hoàng gia Anh cho công bố trên Internet.
Người ta đồn đại với nhau rằng ngài Isaac Newton đã khám phá ra lực hấp dẫn trong
khi ngồi trong mảnh vườn nhà của mẹ ông ở Lincolnshire.
Đó là một trong những giai thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học. Chàng trai trẻ
Isaac Newton đang ngồi trong vườn nhà mình khi một quả táo rơi trúng đầu anh ta và, trong
một lóe sáng của trí tuệ tột đỉnh, anh đột ngột đi tới lí thuyết của mình về sự hấp dẫn. Câu
chuyện trên chắc chắn đã bị thêm mắm dặm muối, bởi chínhNewton
lẫn nhiều thế hệ nhà viết
truyện về ông. Nhưng từ hôm nay, bất kì ai truy cập Internet đều có thể tự tìm thấy lời giải
thích căn bản làm thế nào một quả táo rơi có thể truyền cảm hứng cho sự tìm hiểu lực hấp dẫn.
Hội Hoàng gia ởLondon
đang đưa ra công khai ở dạng kĩ thuật số một bản thảo gốc
quan trọng mô tả cách thứcNewton
nghĩ ra lí thuyết của ông về sự hấp dẫn sau khi chứng kiến
một quả táo đang rơi từ trên cây xuống trong mảnh vườn nhà của mẹ ông ởLincolnshire
, mặc
dù không có bằng chứng nào cho thấy nó rơi trúng đầu ông.
Đó là vào năm 1666, và dịch bệnh đã làm đóng cửa nhiều công sở và những cuộc hội
họp.Newtonphải bỏCambridgeđến Woolsthorpe Manor, gần Grantham ởLincolnshire
, ngôi
nhà khiêm tốn nơi ông chào đời, để chiêm nghiệm những vấn đề hóc búa mà ông đã và đang
theo đuổi ở trường đại học.
Ông đặc biệt bị ám ảnh bởi quỹ đạo của Mặt trăng xung quanh Trái đất, và cuối cùng
đã lí giải rằng tác dụng của trọng lực phải trải rộng đến những khoảng cách rất lớn. Sau khi
trông thấy làm thế nào những quả táo luôn luôn rơi thẳng đứng xuống mặt đất, ông đã bỏ ra
nhiều năm nghiên cứu cơ sở toán học chứng tỏ trọng lực giảm tỉ lệ nghịch với bình phương
khoảng cách.
Nhưng có bằng chứng nào cho thấyNewton
thật sự được truyền cảm hứng bởi một quả
táo đang rơi hay không? Ông không để lại bản viết tay nào cho thấy điều này, mặc dù có
những tư liệu khác cho rằng ông đã từng nói với những người khác như thế lúc ông đã là một
người lớn tuổi.
Các nhà sử học hướng tới một tư liệu đặc biệt viết bởi một trong những người đương
thời trẻ tuổi hơn của Newton, một nhà sưu tầm đồ cổ và là nhà tiền khảo cổ học tên gọi
William Stukeley, người đồng thời là tác giả đã viết quyển tiểu sử đầu tiên của nhà khoa học
vĩ đại người Anh, mang tựa đề Hồi kí về Cuộc đời của Ngài Isaac Newton.
Stukeley cũng sinh ra ở Lincolnshire, và đã sử dụng quan hệ này để kết bạn với
Newton
vốn khét tiếng hay gắt gỏng. Stukeley đã vài lần trò chuyện với anh bạn thâm niên
hơn kia, và hai người gặp nhau đều đặn vì là thành viên của Hội Hoàng gia, và trao đổi với
nhau. Vào một dịp đặc biệt trong năm 1726, Stukeley vàNewton
đã có một buổi ăn tối chung
với nhau ởLondon
.
“Sau buổi tối, tiết trời đang ấm áp, chúng tôi đã tản bộ ra vườn và uống trà dưới tán
một số cây táo, chỉ có ông và tôi”, Stukeley viết trong tập bản thảo viết tay kĩ càng mà Hội
Hoàng gia cho công bố.
“Giữa những bài thuyết giảng khác, ông bảo tôi, ông lại ở trong tình huống tương tự,
như trước đây khi quan điểm lực hấp dẫn xuất hiện trong đầu của ông. Tại sao quả táo đó luôn
luôn rớt thẳng đứng xuống đất, ông tự nghĩ mãi; nhân lúc một quả táo rơi xuống, khi ông ngồi
trong tư thế suy tư.
“Tại sao nó không rớt sang bên, hay rớt lên trên cao? Mà cứ luôn phải rớt xuống tâm
Trái đất? Nhất định lí do là Trái đất đã hút nó xuống. Phải có một sức mạnh hút kéo nào đó ở
vật chất. Và tổng sức mạnh hút kéo trong vật chất của Trái đất phải nằm ở tâm của Trái đất,
chứ không nằm ở bất kì chỗ nào khác của Trái đất.
“Vì thế, quả táo này có rơi vuông góc hay tiến về phía tâm ấy hay không? Nếu vật chất
theo cách đó hút lấy vật chất, thì nó phải tỉ lệ với lượng của nó. Do đó, quả táo hút lấy Trái
đất, đồng thời Trái đất hút lấy quả táo”.
Đây là bản viết chi li nhất của giai thoại quả táo rơi, nhưng nó không phải là bản viết
duy nhất từ thờiNewton
còn lại. Ông cũng đã dùng nó để tiêu khiển với John Conduitt, chồng
của cô cháu gái củaNewton
và là người trợ lí của ông tại Sở đúc tiền Hoàng gia, cơ quan do
Newton
lãnh đạo trong những năm tháng sau này của cuộc đời ông. Conduitt viết: “Vào năm
1666, một lần nữa ông rờiCambridgevề nghỉ với mẹ ông ởLincolnshire
. Trong khi đang đi
lang thang trầm tư trong vườn, thì trong đầu ông chợt xuất hiện ý tưởng rằng sức mạnh của
trọng lực (cái mang quả táo từ trên cây xuống đất) không bị hạn chế với một khoảng cách nhất
định đến Trái đất, mà sức mạnh này phải trải rộng ra xa hơn người ta thường nghĩ.
“Tại sao không cao đến Mặt trăng kia chứ, ông tự bảo mình, và nếu như thế, thì sức
mạnh đó phải ảnh hưởng đến chuyển động của mặt trăng và có lẽ duy trì quỹ đạo của nó, từ đó
ông lao vào tính toán xem kết quả của giả thiết đó sẽ là gì”.
Cả hai bản viết về tình tiết quả táo đều đượcNewton
nhắc lại khoảng 50 năm sau này.
Liệu nó có thật sự xảy ra, hay nó chỉ là một câu chuyện màNewton
đã thêm thắt hay thậm chí
là bịa ra?
“Newton
đã khéo léo mài giũa giai thoại này cho tồn tại với thời gian”, phát biểu của
Keith Moore, trưởng phòng lưu trữ tại Hội Hoàng gia. “Câu chuyện ấy nhất định có thật,
nhưng chắc là đã bị thêm bớt nhiều”. Câu chuyện quả táo phù hợp với quan điểm rằng một vật
hình quả đất bị hút về phía Trái đất. Nó còn cộng hưởng với bản viết trong kinh thánh về ba
cây kiến thức, và được biếtNewtonlà người có quan điểm tôn giáo cực đoan, ôngMoore
nói.
Tại Woolsthorpe Manor, ngày nay thuộc sở hữu quốc gia, người quản gia, Margaret
Winn, cho biết chính cây táo ấy vẫn lớn lên ở phía trước ngôi nhà, ngay trước cửa sổ phòng
ngủ củaNewton
.
“Ông đã từng kể câu chuyện ấy lúc về già nhưng bạn thật sự nghi vấn không biết nó
thật sự có xảy ra hay không nhỉ”, cô Winn, người từng buôn chuyện với những quả táo, nói.
Nhưng cho dù câu chuyện có là sức tưởng tượng đồng bóng của một ông cụ già, thì câu
chuyện quả táo rơi đã đi vào lịch sử với vai trò là “thời khắc eureka” thứ hai trong khoa học,
sau sự kiện Archimedes phát hiện ra cách xác định thể tích của các vật khi ông ở trong nhà
tắm.
Những thời khắc eureka: Làm thế nào họ ‘có được nó’
* Archimedes được cho là nhà khoa học đầu tiên hét toáng câu nói Hi Lạp "Eureka
!"
đánh dấu một bước đột phá, khi ông phát hiện ra nguyên lí của ông về sự nổi. Nhà văn La Mã
Vitruvius đã viết rằng Archimedes đang tắm khi ông nhận ra rằng lúc ông bước vào trong bồn
tắm, khối lượng cơ thể của ông thay thế cho một trọng lượng nước nhất định. Người ta nói nhà
khoa học đã nhảy ra khỏi bồn tắm và trần truồng chạy ra đường phốSyracuseởSicily
, hét
toáng lên: "Eureka
, eureka!" (Tôi tìm ra rồi!). Tính xác thực của câu chuyện này bị nghi ngờ,
vì rằng Vitruvius viết về nó gần 200 năm sau này.
* Otto Loewi, nhà sinh lí học người Đức, bỏ ra 17 năm cố gắng tìm ra bằng chứng dứt
khoát rằng các xung thần kinh được truyền bằng hóa chất, và cuối cùng đã bắt gặp sức mạnh
sáng tạo trong một đêm khi ông nằm mơ thấy mình tiến hành một thí nghiệm quan trọng sử
dụng trái tim của con ếch. Ông lập tức đi vào phòng thí nghiệm của mình thực hiện thí nghiệm
trên, để ý thấy dây thần kinh phế vị của con ếch giải phóng một hóa chất, ngày nay gọi là chất
truyền xung thần kinh acetylcholine, chất này điều khiển nhịp tim.
* Mặc dù người ta thường bảo rằng Charles Darwin đã đi tới lí thuyết của ông về sự
chọn lọc tự nhiên trong khi ở trên quần đảo Galapagos vào năm 1835, nhưng ông chỉ bắt đầu
tin vào sự tiến hóa sau khi ông trở lại Anh. Thay vì có một “thời khắcEureka
”, nhà khoa học
đã bỏ ra hai thập kỉ cân nhắc những quan sát của ông, cuối cùng trình bày lí thuyết gây tranh
cãi của ông trong quyển sách năm 1859 Về nguồn gốc của các loài.
Theo independent.co.uk
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=955#ixzz2Uh9a1QJ1
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước
Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=955#ixzz2Uh9RexiX
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước