6> NICOLAS COPERNIC VÀ THUYẾT NHẬT TÂMTừ xa xưa, con người đã chú ý đến những hiện
tượng thiên nhiên hàng ngày xảy ra trên bầu trời như Mặt trời mọc, Mặt trời
lặn, trăng tròn, trăng khuyết ... Một nhu cầu rất tự nhiên của con người là tìm
cách giải thích thế giới, giải thích các hiện tượng như trên, và do đó ngay từ
thời Cổ Hy lạp, môn thiên văn đã ra đời nhằm hướng tới việc giải thích các hiện
tượng xảy ra trong vũ trụ.
Từ năm 140 sau công nguyên, Ptôlêmê đã cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ. Quan điểm này thống trị trong nhiều thế kỉ.
Chỉ khi thuyết nhật tâm của Côpecnic ra đời (năm 1543) thì quan điểm của Ptôlêmê mới bị phá bỏ. Theo Côpecnic thì Trái đất chỉ là một trong nhiều hành tinh quay xung quanh Mặt trời. Thuyết nhật tâm của Côpecnic đã đặt một nền móng khoa học vững chắc cho Thiên văn học.
Hình dưới là mô hình hệ Mặt trời. trong đó Trái đất là một trong nhiều hành tinh chuyển động quanh Mặt trời.Những số liệu chính của 8 hành tinh của hệ Mặt trời (theo thứ tự từ gần Mặt trời nhất ra xa Mặt trời):1. Thủy tinh
– Đường kính: 4880 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,006.
– Khối lượng riêng: 5,4.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: từ 46.106 km đến 69,8.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 87,9 ngày.
2. Kim tinh
– Đường kính: 12100 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,82.
– Khối lượng riêng: 5,3.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 108,21.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 224,7 ngày.
3. Trái đất – Đường kính: 12750 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 1.
– Khối lượng riêng: 5,5.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 149,6.106 km
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 365,25 ngày.
4. Hỏa tinh – Đường kính: 6790 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,11.
– Khối lượng riêng: 3,9.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 227,94.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 1,88 năm.
5. Mộc tinh
– Đường kính: 142980 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 318.
– Khối lượng riêng: 1,3.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 788,34.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 11,86 năm.
6. Thổ tinh
– Đường kính: 120540 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 94.
– Khối lượng riêng: 0,7.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 1427.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 29,46 năm.
7. Thiên vương tinh
– Đường kính: 51120 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 15.
– Khối lượng riêng: 1,2.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 2869,6.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 84 năm.
8. Hải vương tinh
– Đường kính: 50540 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 17.
– Khối lượng riêng: 1,7.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 4496.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 164,8 năm.
Mặt trời có khối lượng 1,9891.1030 kg, bán kính 696000 km.
Trái đất có khối lượng 5,9742.1024 kg, bán kính xích đạo 6378,14 km.
Mặt trăng là một vệ tinh tự nhiên của Trái đất, có khối lượng 7,35.1022 kg, bán kính 1738 km, khoảng cách từ Mặt trăng đến Trái đất là 384403 km.
Pluton không còn là hành tinh thứ 9 của Hệ Mặt trời nữaSau 76 năm kể từ khi được phát hiện, Pluton (sao Diêm Vương) vừa bị "tước mất" danh hiệu hành tinh. Cuộc họp Đại hội Hiệp hội Thiên văn Quốc tế họp tại Cộng hoà Séc quy tụ hơn 2.500 nhà thiên văn học đã bỏ phiếu hôm thứ 5 (24/08/2006) về định nghĩa "Hành tinh".
Theo đó, Pluton (Diêm vương tinh: Đường kính: 2320 km; Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,002; Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: từ 4431.106 km đến 7369.106 km; Chu kì quay quanh Mặt trời: 248,5 năm) khụng cũn là hành tinh trong Hệ Mặt trời nữa. Điều đó có nghĩa là Hệ Mặt trời của chúng ta chỉ cũn 8 hành tinh. Định nghĩa về hành tinh nêu rõ: "Hành tinh là một thiên thể bay trong quỹ đạo quanh Mặt trời, với trọng lượng đủ lớn để tạo ra lực hấp dẫn và quỹ đạo của nó phải tách bạch với các vật thể khác."
Chiếu theo định nghĩa này, con người phải chào tạm biệt sao Diêm Vương như một hành tinh vì quỹ đạo hình êlip dẹt của nó cắt quĩ đạo của sao Hải Vương. Từ nay, thiên thể nhỏ bé và rất xa xôi này sẽ được gọi là “tiểu hành tinh” (dwarf planet). Như thế, 8 hành tinh được phát hiện trước năm 1900 của hệ Mặt trời là sao Thủy, sao Kim, Trái đất, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương và sao Hải Vương. Định nghĩa trên cũng đưa các thiên thể như Charon, Ceres và 2003 UB313 được phát hiện gần đây lên vị trí là các tiểu hành tinh.
Trước đây, thiên thể Charon được xem là một mặt trăng của sao Diêm Vương, nhưng xét về kích cỡ thì một số chuyên gia coi nó là hành tinh song sinh. Được xem là một thiên thạch, Ceres là vật thể lớn nhất trong vành đai giữa sao Hỏa và sao Thổ, và có hình cầu giống như một hành tinh. Hiệp hội Thiên văn Quốc tế cũng nhất trí với việc tạo một nhóm hành tinh mới Pluton (trong đó có Pluton, Charon và 2003 UB313).
Như vậy, Pluton là cơ sở của nhóm hành tinh mới này. Cuộc tranh cãi xung quanh danh hiệu sao Diêm Vương bắt đầu từ phát hiện của nhà thiên văn Mỹ Clyde Tombaugh năm 1930. Lý do là kích cỡ nhỏ và vị trí quá xa của nó so với tám hành tinh truyền thống của hệ Mặt trời. Thậm chí, thiên thể màu vàng nhạt này (với đường kính 2.360km) còn bé hơn cả một số vệ tinh của các hành tinh khác trong hệ Mặt trời, điển hình là Mặt trăng của Trái đất (đường kính 3.476km).
Quĩ đạo của nó cũng nằm nghiêng hơn so với tất cả những hành tinh còn lại. Tranh cãi càng nổi lên khi một thiên thể lớn hơn (đường kính 3.000km), có tên gọi 2003 UB313 (hay Xena), được một nhà thiên văn Mỹ tìm thấy trong vùng ngoài cùng của hệ Mặt trời là vành đai Kuiper.
Sao Diêm Vương được đặt theo tên thần Pluton, vị thần cai quản địa ngục trong thần thoại La Mã, giữa một loạt đề cử tên các vị thần khác. Một trong những lý do mà các nhà thiên văn chọn tên Pluton vì nó bắt đầu bằng “Pl”, hai ký tự viết tắt tên nhà thiên văn học Percival Lowell (năm 1905 ông đưa ra khả năng hiện diện của một hành tinh nằm ngoài sao Hải Vương).
Sao Diêm Vương có hai mặt trăng nhỏ tên Nix và Hydra - bán kính khoảng 30-160 km - được phát hiện năm 2005. Đầu năm nay, Mỹ phóng tàu không người lái New Horizons, mong đợi đây sẽ là tàu vũ trụ đầu tiên bay ngang qua tiểu hành tinh Diêm Vương và vành đai Kuiper tháng 7/2015
GIÊM- OÁT
Vào một ngày tháng giêng năm 1736, chú bé Giêmx Oát ra đời tại một xóm chài nghèo trên bờ sông Cơlaiđơ thị trấn Grinốc nước Anh. Tuy tạng người ốm yếu, nhưng chú bé rất chăm học và thông minh. Ông bố Oát, vốn là thầy dạy toán, đã cố công rèn cho con nắm vững toán học ngay từ thuở nhỏ.
Ông có các dụng cụ đóng tàu, tự sáng chế ra cần cẩu, thu thập các dụng cụ và mở một xưởng mộc.Chính trong cái xưởng mộc này, ngoài những lúc đi câu mà cậu rất say mê, Oát có thể ngồi hàng mấy giờ liền đục đẽo, cưa bào, lấy dấu và ghép mộng. Cậu tự làm những đồ chơi do chính cậu nghĩ ra.
Sự tập dượt đó đã giúp cho óc sáng tạo của Oát ngày càng phát triển.Năm 13 tuổi trở đi là giai đoạn phát triển đặc biệt của Oát. Kể cũng lạ kì, trong cuộc đời của một con người, hình như có một thời kì mà tài năng tự nhiên bừng lóe.
Lúc này nó cần được vun trồng và chăm sóc đặc biệt, bỏ qua thời kì này, mầm mống của tài năng có thể lặn chìm đi không bao giờ trở lại.Chính vào cái lúc hiếm hoi đó của thời niên thiếu, Oát may mắn được đến sống ở nhà người bác, một giáo sư cổ văn tại trường Đại học tổng hợp Glaxgâu.
Tại đây, trong phòng thí nghiệm nhà trường, khác nào như cá gặp nước, Oát tự làm thí nghiệm về lí hoá. Cậu ưa cô độc, thích tư lự và mò mẫm một mình. Chỗ nào khả nghi cậu kiểm tra lại ý nghĩ của mình bằng thực nghiệm. Theo lời kể của một người bạn, đồng thời là người viết tiểu sử về Oát, giáo sư Rôbinxơn, thì nhà phát minh tương lai này “ … có khả năng biến mọi vật thành đối tượng của một sự nghiên cứu nghiêm túc “ .. Bác gái cậu đã nói về khả năng làm việc phi thường của cậu như sau : “Chỉ trong vài giờ cậu kịp làm những công việc mà người thường phải làm trong suốt mấy ngày”.
Cứ như vậy cậu lớn lên ở miền Xcốtlen hẻo lánh và trở thành một cậu bé tò mò, ham hiểu biết, thích suy nghĩ và luôn khát khao sáng chế một cái gì đó hữu ích cho con người.Nhưng tiếc thay, ở Glaxgâu mọi cái đều thiếu thốn và hiếm tìm được người giúp cậu nắm vững tay nghề.
Cậu quyết định phải tới Luân Đôn học việc, mặc dù đã hình dung trước phải vượt không biết bao nhiêu trở ngại, khó khăn.Mười hai ngày liên tục ngồi trên xe ngựa, cậu đến Luân Đôn vào một chiều đông giá lạnh. Cậu tìm ngay đến học việc tại một xưởng sản xuất các dụng cụ đi biển. Cậu làm việc rất nhiều, xem xét, học hỏi bắt chước các bác thợ già.
Theo lời kể của người viết tiểu sử về Oát: “Có lẽ trong thời gian học việc cậu chưa đi dạo đến hai lần trên các đường phố Luân Đôn”Năm ấy Oát vừa 19 tuổi.Sau một năm, với vốn kiến thức và tay nghề đã rèn rũa được, Oát trở về Glaxgâu, mở một xưởng cơ khí và sau đó làm phụ tá chế tạo dụng cụ ở trường đại học. Lúc này Oát nổi tiếng là nhà chế tạo dụng cụ lành nghề.
Anh ham học vô cùng, vẫn thường xuyên tự học. Ngoài ra, anh còn tranh thủ đến nghe giảng ở trường đại học về lí thuyết nhiệt học và nhiều môn học khác. Chẳng bao lâu Oát đã nắm vững ba ngoại ngữ và làm mọi người phải kinh ngạc về những hiểu biết sâu sắc của anh trong các lãnh vực triết học, thơ ca, nhạc họa và điêu khắc.
Phòng anh trở thành nơi tụ họp thường xuyên của các nhà khoa học. Họ tranh luận, bàn bạc, thuyết trình, giới thiệu. Chính trong thời đó Oát tích lũy một khối lượng kiến thức khổng lồ cần thiết cho mục đích cuộc đời mình.Anh thường nói với bạn bè : “ Chúng ta không thể lệ thuộc vào thiên nhiên mà phải chiến thắng thiên nhiên !”* Năm 1764 là một năm có ý nghĩa hết sức đặc biệt trong cuộc đời của Oát.
Trường Đại học Glaxgâu giao cho Oát sửa chữa một mẫu máy hơi nước do Niucômen thiết kế. Khi bắt tay vào việc, Oát gặp một loạt khó khăn. Như thường lệ ông suy nghĩ về những vấn đề mấu chốt của mô hình này và chẳng mấy chốc ông nhận ra rằng, cốt lõi của tất thảy không phải là cái mô hình ương bướng kia mà là bản thân những nguyên lí làm cơ sở cho việc chế tạo cái máy đó.- Ừ, giá như bây giờ đúc kết được tất cả những kinh nghiệm thành công hay thất bại của những người đi trước, rút ra những nguyên lí cơ sở của máy thì chắc vấn đề sẽ trở nên sáng rõ.
Ông nhớ lại những mẫu máy của Papanh, Xavơri, Ghêric, Pônzunôp, thậm chí của cả Hêrôn sống cách ta khoảng 2000 năm về trước. Ông đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm và đối chiếu với lí thuyết về nhiệt hồi đó, nhưng suốt một năm ròng, tốn bao nhiêu mồ hôi và sức lực, máy hơi nước Niucômen vẫn không cải tiến được tí nào.Thế rồi, bỗng một hôm... Nhớ lại ngày hôm ấy, Oát viết “ “Vào một ngày thứ bảy (năm 1765) diệu kì, tôi đang dạo bước …Mọi ý nghĩ của tôi tập trung vào giải quyết vấn đề làm tôi bứt rứt. Trong óc tôi bỗng loé lên ý nghĩ : vì hơi nước là vật đàn hồi cho nên nó sẽ choán đầy cả khoảng chân không.
Nếu dùng một ống nối xilanh với thiết bị xả đặt ở bên ngoài thì hơi nước sẽ luồn vào đó. Chính tại chỗ này ta có thể làm ngưng hơi nước mà không cần làm lạnh xilanh. Lúc đến Gônphơhaozơ, trong óc tôi đã có biểu tượng đầy đủ về những cái cần làm “.Đấy, ý nghĩ cải tiến máy hơi nước Niucômen đã ra đời như thế đấy.
Trong máy Niucômen, người ta tưới nước lạnh vào xilanh để làm ngưng hơi. Bây giờ phải tách bình ngưng hơi ra khỏi xilanh và để cho áp lực của hơi nước làm chạy máy chứ không dùng áp lực của không khí.Việc phát minh ra bình ngưng hơi tách riêng tuy đơn giản nhưng nó là phát minh vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử của máy hơi nước.
Nó đã làm cho Oát giờ đây trở thành niềm tự hào của dân tộc ông và đồng bào ông.Ngay sau khi đi chơi về, Oát bắt tay ngay vào thí nghiệm và làm một số mô hình chứng minh những ý nghĩ vừa xuất hiện là đứng đắn.
Ngày nay, khách tham quan có thể nhìn tận mắt những mô hình này tại Viện bảo tàng khoa học Luân Đôn.Ngày 9 tháng Giêng năm 1769, ông đăng kí và nhận bằng phát minh : “Các phương pháp giảm tiêu phí hơi nước và do đó giảm nhiên liệu trong các máy đốt bằng lửa “.Lúc này, tên tuổi Oát được nhiều người biết đến. Oát quyết định bắt tay vào việc chế tạo máy hơi nước và ước mơ sẽ có ngày điều khiển một xưởng lớn sản xuất toàn bộ các thiết bị về máy hơi nước.
Được thành công cổ vũ, Oát làm việc quên ăn, quên ngủ. Ông đã sáng tạo ra trên hai mươi bộ phận trong máy hơi nước. Trước đây người ta hoàn toàn không đo được mực nước nồi hơi, có nhiều lúc nước cạn cháy cả nồi. Oát nghĩ ra một “ống mực nước” dựa trên nguyên tắc bình thông nhau, cho phép thường xuyên theo dõi được mực nước. Trước đây người ta không điều khiển được áp suất trong nồi hơi mà chỉ biết dùng nắp hơi bảo hiểm, mỗi khi áp suất trong nồi tăng tới mức nguy hiểm, nắp bảo hiểm sẽ cho hơi thoát ra ngoài, tránh được nguy cơ nổ nồi. Oát đã chế ra một “đồng hồ đo áp suất hơi” trong nồi. Cũng chính Oát đã nghĩ raviệc sử dụng “bánh xe đà” để điều hòa tốc độ của máy hơi.
Một sáng kiến quan trọng nữa là “máy tiết chế Oát” gồm một khung quay hình thoi, hai đỉnh có hai quả cầu, nhằm giữ cho số vòng quay của chiếc máy không thay đổiNhờ những sáng kiến tài tình của Oat, chiếc máy đầu tiên của ông hơn hẳn máy Niucômen về mặt tiết kiệm nhiên liệu, nên nó nhanh chóng được sử dụng ở các mỏ và dần dần thay thế hẳn máy Niucômen ở khắp mọi nơiTuy nhiên, cũng như những máy hơi nước trước đó, máy theo kiểu cấu tạo đầu tiên của Oát cũng chỉ dùng được để bơm nước, hay kéo bể ở lò luyện kim là cùng, nghĩ là chỉ dùng được trong trường hợp các bộ phận thừa hành của máy có chuyển động đi về.
Vì thế nó không thể thể là loại động cơ nhiệt vạn năng. Đã đến lúc phải có chiếc máy tạo chuyển động tròn mới có tác dụng ở mọi ngành sản xuấtNhiệm vụ ấy đè nặng lên vai Oát và ông đã giải quyết thành công mĩ mãn, xứng đáng được mệnh danh là “Cha đẻ của máy hơi nước”Với lòng mong mỏi hoàn thiện máy hơi nước, Oát quyết định đi Luân Đôn…
Một buổi chiều, đang ngồi trầm ngâm trước bàn giải khát trong khách sạn, Oát bỗng thấy một người trẻ tuổi, ăn mặc lịch sự tiến lại gần.- Xin chào ông, rất hân hạnh được làm quen với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là Buntơn, một nhà doanh nghiệp ở Bơcminhgam.- Còn tôi là Oát…- Vâng, tôi biết, ông là nhà phát minh tiếng tăm. Tôi muốn được hợp tác với ông vì tấm lòng ngưỡng mộ…
Về phần Oát, điều kiện quan trọng nhất với ông chỉ là có điều kiện tiếp tục những thí nghiệm hoàn thiện máy hơi nước, còn những vấn đề khác ông không quan tâm nhiều lắmThế là bắt đầu từ hôm đó Oát trở thành người phụ trách kĩ thuật trong những xưởng máy của Buntơn.
Được rộng đường hoạt động, Oát tiếp tục những thí nghiệm dang dở. Sau nhiều lần thất bại và những đêm thao thức, Oát đã thành công. Ông bố trí thêm một hệ thống những bộ phận ăn khớp với nhau để biến chuyển động thẳng thành chuyển động quay: cần của pittông, được nối với một thanh thép gọi là biên.
Biên lại nối với tay quay. Đầu tay quay gắn liền với trục quay của vô lăng. Ngoài ra, ở chỗ pittông nối với biên, ông đặt thêm một bộ phận lui tới dọc theo một khe trượt song song với cần pittông. Nhờ bộ phận này nên biên có thể chuyển động chếch mà không làm thanh trượt dao động sang hai bên.
Như vậy, chuyển động thẳng của pittông được chuyển qua biên và biến đổi thành chuyển động quay của vô lăng.Thế là chiếc máy hơi nước hoàn thiện đầu tiên, kết hợp tất cả kinh nghiệm của những người đi trước và những sáng kiến thiên tài của Oát đã ra đời.
Trong kiểu máy này có đủ những yếu tố cơ bản của một máy hơi nước như chúng ta thấy ngày nay. So với kiểu máy của Niucômen, nó khác xa một trời một vựcKết quả thử đã vượt xa cả sự mong đợi.
Máy chỉ cần 3 kg than để sản xuất ra một “mã lực”, trong điều khi kiểu máy của Niucômen phải xài gần … hai tạ.
Máy cũng gọn nhẹ, có thể sử dụng ở bất cứ đâu.Oát đăng ký và nhận bằng phát minh về chiếc máy này năm 1784Phấn khởi trước thành công rực rỡ, Oát tiếp tục nghĩ ra thêm hàng loạt kiểu máy khác nữa, nào là máy cưa đỉa, nào là búa máy, rồi máy cán, máy mài,…
Công ti “Oát và Buntơn” chuyển hẳn sang sản xuất máy hơi nước vạn năng, và chỉ trong ít năm, những kiểu máy “hiện đại” mang nhãn hiệu “Oát và Biutơn” đã tràn ngập khắp thị trường Châu AuVới khối óc thông minh và đôi bàn tay khéo léo của Oát, lịch sử kĩ thuật đã thật sự bước vào một thời đại mới: thời đại máy hơi nước
Đánh giá những đóng góp xuất sắc của Oát đối với các động cơ nhiệt hiện đại, chúng ta có thể nói rằng, Oát không hoàn thiện. Mà thực tế đã phát minh ra máy hơi nước
Ông được bầu làm hội viên Hội khoa học hoàng gia và Viện sĩ nhiều Viện hàn lâm khoa học nước ngoàiNhững năm cuối đời, ông đi du lịch khắp nơi, thường xuyên về thăm xóm chài nghèo, dòng sông Cơlaiđơ và thị trấn Grinốc, thường xuyên trao đổi thư từ với nhiều người và tận tình giúp đỡ các nhà sáng chế phát minh trẻ tuổiThật kì lạ, càng về già ông càng sáng suốt và khỏe mạnh. Bộ óc ông lúc nào cũng tỉnh táo, minh mẫnVà, chỉ một lần, ông cảm thấy hơi khó ở.
Ông hiểu rằng cái chết đã đến, và ông đón nhận nó một cách thanh thản, bởi lẽ ông hiểu rằng ông đã cống hiến hết sức mình cho nhân loại.
ANDRE MARIE AMPERE:NHỮNG CỐNG HIẾN KHOA HỌC
Ông sinh ra ở Lyon, gần với Poleymieux - quê của cha ông. Ông có tính tò mò và lòng say mê theo đuổi kiến thức từ khi còn rất nhỏ, người ta nói rằng ông đã đưa ra lời giải cho các tổng số học lớn bằng cách sử dụng các viên sỏi và mẩu bánh bích quy trước khi biết con số. Cha ông dạy ông tiếng Latinh, nhưng sau đó đã bỏ khi nhận thấy khả năng và khuynh hướng nghiên cứu toán học của con trai. Tuy vậy chàng thanh niên trẻ tuổi Ampère sau này đã học lại tiếng Latinh để giúp ông hiểu được các tác phẩm của Euler và Bernoulli. Cuối đời ông đã nói rằng ông biết nhiều nhất về toán học khi ông 18 tuổi, tuy vậy ông cũng đọc rất nhiều sách vở của các lĩnh vực khác như lịch sử, các ghi chép trong các chuyến du hành, thơ ca, triết học vàkhoa học tự nhiên.
André-Marie Ampère (20 tháng 1, 1775 – 10 tháng 6, 1836) là nhà vật lý người Pháp và là một trong những nhà phát minh ra điện từ trường. Đơn vị đo cường độ dòng điện được mang tên ông là ampere.
Cuộc đời
Khi Lyon bị rơi vào tay quân đội cách mạng năm 1793, cha của Ampère, người giữ chức vụ juge de paix, đã chống lại một cách kiên quyết cuộc cách mạng này, do đó đã bị bỏ tù và sau đó đã chết trên đoạn đầu đài. Sự kiện này gây ấn tượng sâu sắc đối với tâm hồn nhạy cảm của Andre-Marie, trong vài năm sau đó ông đã chìm trong sự lãnh cảm. Sau đó sở thích của ông đã được đánh thức bởi một số bức thư về thực vật học khi chúng đến tay ông, và từ thực vật học ông đã chuyển sang nghiên cứu thơ ca cổ điển, và tự mình viết những bài thơ.
Năm 1796 ông gặp Julie Carron, và họ đã gắn bó với nhau, quá trình gặp gỡ của hai người đã được ông ghi chép lại rất chất phác trong tạp chí (Amorum). Năm 1799 họ cưới nhau. Vào khoảng năm 1796 Ampère giảng dạy toán học, hóa học và ngoại ngữ tại Lyon; năm 1801 ông chuyển tới Bourg, làm giáo sư môn vật lý và hóa học, để lại người vợ ốm đau và con nhỏ (là Jean Jacques Ampère) ở Lyon. Vợ ông mất năm 1804, ông đã không bao giờ lấy lại được thăng bằng vì mất mát này. Cùng năm này ông được bổ nhiệm làm giáo sư môn toán của trường trung học (lycée) ở Lyon.
Bài báo nhỏ của ông Considérations sur la théorie mathématique du jeu, trong đó miêu tả những khả năng thắng bạc thay vì chơi may rủi, được xuất bản năm 1802 và đã giành được sự chú ý củaJean Baptiste Joseph Delambre, là người đã giới thiệu ông làm giáo sư ở Lyon, và sau đó một thời gian (năm 1804) là vị trí trợ giảng ở trường Bách khoa Paris, ở đó ông được bầu là giáo sư toán năm 1809. Tại đây ông tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu khoa học và các nghiên cứu đa ngành với một sự chuyên cần không suy giảm. Ông được kết nạp làm thành viên của Viện Hàn lâm Pháp năm 1814.
Ông đã thiết lập mối quan hệ giữa điện trường và từ trường, và trong phát triển khoa học về điện từ trường, hay như ông gọi đó là điện động lực học, là lĩnh vực tên tuổi của Ampère đã được công nhận. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1820 ông được biết về phát minh của Hans Christian Ørstedrằng kim nam châm chịu tác động của dòng điện. Vào ngày 18 tháng 9 cùng năm ông gửi một báo cáo tới Viện hàn lâm, báo cáo này chứa đựng những bình luận hoàn thiện hơn về hiện tượng này.
Toàn bộ lĩnh vực này đã được mở ra khi ông khảo sát và phát biểu công thức toán học không những để giải thích hiện tượng điện từ trường mà còn dự đoán nhiều sự kiện và hiện tượng mới.
Các bài báo gốc của ông về đề tài này có thể tìm thấy trong Ann. Chim. Phys. trong khoảng từ năm 1820 đến năm 1828. Sau đó ông đã viết bài Essai sur la philosophie des sciences rất có giá trị. Ngoài ra, ông đã viết một loạt các luận văn và bài báo, trong đó có hai bài về tích phân của các phương trình vi phân (Jour. École Polytechn. x., xi.).
Ông mất ở Marseille và được hỏa táng ở Cimetière de Montmartre, Paris. Sự hào hiệp và tính cách đơn giản của ông được thể hiện trong cuốn sách của ông Journal et correspondance (Paris, 1872). Bốn mươi lăm năm sau, các nhà toán học đã công nhận ông.
Đóng góp
Cống hiến của Ampère trong khoa học rất lớn.
Là một nhà toán học hàng đầu, ông đã chỉ ra cách sử dụng ngành khoa học này như thế nào. Ông coi toán học là một ngành của triết học, là cơ sở để đưa các phát minh trong vật lý trở thành các công thức định lượng. Vai trò của toán học là nâng cao tính chính xác, cũng như một phương tiện thực nghiệm của vật lý hiện đại.
Là một nhà tiên đoán vĩ đại, ông đã đưa các tư tưởng khoa học, từ đó đã mở ra các hướng nghiên cứu và ứng dụng khoa học rộng lớn. Tên tuổi của ông được xếp ngang hàng với các nhà bác học vĩ đại khác của nước Pháp.
Ampere có nhiều đóng góp trong lĩnh vực toán học, vật lý, hóa học, triết học. Trong toán học ông nghiên cứu lý thuyết xác suất, giải tích và ứng dụng toán học vào vật lý.
Công trình của Ampère trong vật lý đạt được hàng loạt các thành tựu vĩ đại. Dựa vào phát hiện của Ørsted năm 1820 về tác dụng của dòng địện lên kim nam châm, ông đã nghiên cứu bằng thực nghiệm, tìm ra lực điện từ và phát biểu thành định luật mang tên ông (Xem định luật Ampere). Lực điện từ là một trong các lực cơ bản của tự nhiên, cơ sở của điện động lực học. Định luật Ampère cho phép xác định chiều và trị số của lực điện từ, là cơ sở chế tạo động cơ điện. Công thức Ampère và định luật Faraday là hai cơ sở chính để James Clerk Maxwell xây dựng nên lý thuyết trường điện từ.
Ampère đã phát biểu qui tắc xác định từ trường của dòng điện (qui tắc vặn nút chai), tiên đoán dòng điện phân tử để giải thích bản chất từ của vật liệu sắt từ. Sau Ampère, vật liệu sắt từ trở nên rất phổ biến.
Trong hoá học, ông đã tìm ra định luật sau này gọi là định luật Avogadro-Ampère. Ông còn là một nhà thực nghiệm tài ba. Ông đã thiết kế và tự làm nhiều thiết bị phục vụ cho các thí nghiệm của mình. Những thiết bị này đã trở thành nền tảng cho các dụng cụ đo điện (như ampe kế, vôn kế,điện trở kế...) Ông còn là cha đẻ của phần tử vô hướng, của từ xuyến và của nam châm điện.
Từ năm 140 sau công nguyên, Ptôlêmê đã cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ. Quan điểm này thống trị trong nhiều thế kỉ.
Chỉ khi thuyết nhật tâm của Côpecnic ra đời (năm 1543) thì quan điểm của Ptôlêmê mới bị phá bỏ. Theo Côpecnic thì Trái đất chỉ là một trong nhiều hành tinh quay xung quanh Mặt trời. Thuyết nhật tâm của Côpecnic đã đặt một nền móng khoa học vững chắc cho Thiên văn học.
Hình dưới là mô hình hệ Mặt trời. trong đó Trái đất là một trong nhiều hành tinh chuyển động quanh Mặt trời.Những số liệu chính của 8 hành tinh của hệ Mặt trời (theo thứ tự từ gần Mặt trời nhất ra xa Mặt trời):1. Thủy tinh
– Đường kính: 4880 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,006.
– Khối lượng riêng: 5,4.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: từ 46.106 km đến 69,8.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 87,9 ngày.
2. Kim tinh
– Đường kính: 12100 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,82.
– Khối lượng riêng: 5,3.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 108,21.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 224,7 ngày.
3. Trái đất – Đường kính: 12750 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 1.
– Khối lượng riêng: 5,5.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 149,6.106 km
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 365,25 ngày.
4. Hỏa tinh – Đường kính: 6790 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,11.
– Khối lượng riêng: 3,9.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 227,94.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 1,88 năm.
5. Mộc tinh
– Đường kính: 142980 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 318.
– Khối lượng riêng: 1,3.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 788,34.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 11,86 năm.
6. Thổ tinh
– Đường kính: 120540 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 94.
– Khối lượng riêng: 0,7.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 1427.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 29,46 năm.
7. Thiên vương tinh
– Đường kính: 51120 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 15.
– Khối lượng riêng: 1,2.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 2869,6.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 84 năm.
8. Hải vương tinh
– Đường kính: 50540 km.
– Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 17.
– Khối lượng riêng: 1,7.103 kg/m3.
– Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: 4496.106 km.
– Chu kì quay quanh Mặt trời: 164,8 năm.
Mặt trời có khối lượng 1,9891.1030 kg, bán kính 696000 km.
Trái đất có khối lượng 5,9742.1024 kg, bán kính xích đạo 6378,14 km.
Mặt trăng là một vệ tinh tự nhiên của Trái đất, có khối lượng 7,35.1022 kg, bán kính 1738 km, khoảng cách từ Mặt trăng đến Trái đất là 384403 km.
Pluton không còn là hành tinh thứ 9 của Hệ Mặt trời nữaSau 76 năm kể từ khi được phát hiện, Pluton (sao Diêm Vương) vừa bị "tước mất" danh hiệu hành tinh. Cuộc họp Đại hội Hiệp hội Thiên văn Quốc tế họp tại Cộng hoà Séc quy tụ hơn 2.500 nhà thiên văn học đã bỏ phiếu hôm thứ 5 (24/08/2006) về định nghĩa "Hành tinh".
Theo đó, Pluton (Diêm vương tinh: Đường kính: 2320 km; Khối lượng tỉ đối so với Trái đất: 0,002; Khoảng cách trung bình tới Mặt trời: từ 4431.106 km đến 7369.106 km; Chu kì quay quanh Mặt trời: 248,5 năm) khụng cũn là hành tinh trong Hệ Mặt trời nữa. Điều đó có nghĩa là Hệ Mặt trời của chúng ta chỉ cũn 8 hành tinh. Định nghĩa về hành tinh nêu rõ: "Hành tinh là một thiên thể bay trong quỹ đạo quanh Mặt trời, với trọng lượng đủ lớn để tạo ra lực hấp dẫn và quỹ đạo của nó phải tách bạch với các vật thể khác."
Chiếu theo định nghĩa này, con người phải chào tạm biệt sao Diêm Vương như một hành tinh vì quỹ đạo hình êlip dẹt của nó cắt quĩ đạo của sao Hải Vương. Từ nay, thiên thể nhỏ bé và rất xa xôi này sẽ được gọi là “tiểu hành tinh” (dwarf planet). Như thế, 8 hành tinh được phát hiện trước năm 1900 của hệ Mặt trời là sao Thủy, sao Kim, Trái đất, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương và sao Hải Vương. Định nghĩa trên cũng đưa các thiên thể như Charon, Ceres và 2003 UB313 được phát hiện gần đây lên vị trí là các tiểu hành tinh.
Trước đây, thiên thể Charon được xem là một mặt trăng của sao Diêm Vương, nhưng xét về kích cỡ thì một số chuyên gia coi nó là hành tinh song sinh. Được xem là một thiên thạch, Ceres là vật thể lớn nhất trong vành đai giữa sao Hỏa và sao Thổ, và có hình cầu giống như một hành tinh. Hiệp hội Thiên văn Quốc tế cũng nhất trí với việc tạo một nhóm hành tinh mới Pluton (trong đó có Pluton, Charon và 2003 UB313).
Như vậy, Pluton là cơ sở của nhóm hành tinh mới này. Cuộc tranh cãi xung quanh danh hiệu sao Diêm Vương bắt đầu từ phát hiện của nhà thiên văn Mỹ Clyde Tombaugh năm 1930. Lý do là kích cỡ nhỏ và vị trí quá xa của nó so với tám hành tinh truyền thống của hệ Mặt trời. Thậm chí, thiên thể màu vàng nhạt này (với đường kính 2.360km) còn bé hơn cả một số vệ tinh của các hành tinh khác trong hệ Mặt trời, điển hình là Mặt trăng của Trái đất (đường kính 3.476km).
Quĩ đạo của nó cũng nằm nghiêng hơn so với tất cả những hành tinh còn lại. Tranh cãi càng nổi lên khi một thiên thể lớn hơn (đường kính 3.000km), có tên gọi 2003 UB313 (hay Xena), được một nhà thiên văn Mỹ tìm thấy trong vùng ngoài cùng của hệ Mặt trời là vành đai Kuiper.
Sao Diêm Vương được đặt theo tên thần Pluton, vị thần cai quản địa ngục trong thần thoại La Mã, giữa một loạt đề cử tên các vị thần khác. Một trong những lý do mà các nhà thiên văn chọn tên Pluton vì nó bắt đầu bằng “Pl”, hai ký tự viết tắt tên nhà thiên văn học Percival Lowell (năm 1905 ông đưa ra khả năng hiện diện của một hành tinh nằm ngoài sao Hải Vương).
Sao Diêm Vương có hai mặt trăng nhỏ tên Nix và Hydra - bán kính khoảng 30-160 km - được phát hiện năm 2005. Đầu năm nay, Mỹ phóng tàu không người lái New Horizons, mong đợi đây sẽ là tàu vũ trụ đầu tiên bay ngang qua tiểu hành tinh Diêm Vương và vành đai Kuiper tháng 7/2015
GIÊM- OÁT
Vào một ngày tháng giêng năm 1736, chú bé Giêmx Oát ra đời tại một xóm chài nghèo trên bờ sông Cơlaiđơ thị trấn Grinốc nước Anh. Tuy tạng người ốm yếu, nhưng chú bé rất chăm học và thông minh. Ông bố Oát, vốn là thầy dạy toán, đã cố công rèn cho con nắm vững toán học ngay từ thuở nhỏ.
Ông có các dụng cụ đóng tàu, tự sáng chế ra cần cẩu, thu thập các dụng cụ và mở một xưởng mộc.Chính trong cái xưởng mộc này, ngoài những lúc đi câu mà cậu rất say mê, Oát có thể ngồi hàng mấy giờ liền đục đẽo, cưa bào, lấy dấu và ghép mộng. Cậu tự làm những đồ chơi do chính cậu nghĩ ra.
Sự tập dượt đó đã giúp cho óc sáng tạo của Oát ngày càng phát triển.Năm 13 tuổi trở đi là giai đoạn phát triển đặc biệt của Oát. Kể cũng lạ kì, trong cuộc đời của một con người, hình như có một thời kì mà tài năng tự nhiên bừng lóe.
Lúc này nó cần được vun trồng và chăm sóc đặc biệt, bỏ qua thời kì này, mầm mống của tài năng có thể lặn chìm đi không bao giờ trở lại.Chính vào cái lúc hiếm hoi đó của thời niên thiếu, Oát may mắn được đến sống ở nhà người bác, một giáo sư cổ văn tại trường Đại học tổng hợp Glaxgâu.
Tại đây, trong phòng thí nghiệm nhà trường, khác nào như cá gặp nước, Oát tự làm thí nghiệm về lí hoá. Cậu ưa cô độc, thích tư lự và mò mẫm một mình. Chỗ nào khả nghi cậu kiểm tra lại ý nghĩ của mình bằng thực nghiệm. Theo lời kể của một người bạn, đồng thời là người viết tiểu sử về Oát, giáo sư Rôbinxơn, thì nhà phát minh tương lai này “ … có khả năng biến mọi vật thành đối tượng của một sự nghiên cứu nghiêm túc “ .. Bác gái cậu đã nói về khả năng làm việc phi thường của cậu như sau : “Chỉ trong vài giờ cậu kịp làm những công việc mà người thường phải làm trong suốt mấy ngày”.
Cứ như vậy cậu lớn lên ở miền Xcốtlen hẻo lánh và trở thành một cậu bé tò mò, ham hiểu biết, thích suy nghĩ và luôn khát khao sáng chế một cái gì đó hữu ích cho con người.Nhưng tiếc thay, ở Glaxgâu mọi cái đều thiếu thốn và hiếm tìm được người giúp cậu nắm vững tay nghề.
Cậu quyết định phải tới Luân Đôn học việc, mặc dù đã hình dung trước phải vượt không biết bao nhiêu trở ngại, khó khăn.Mười hai ngày liên tục ngồi trên xe ngựa, cậu đến Luân Đôn vào một chiều đông giá lạnh. Cậu tìm ngay đến học việc tại một xưởng sản xuất các dụng cụ đi biển. Cậu làm việc rất nhiều, xem xét, học hỏi bắt chước các bác thợ già.
Theo lời kể của người viết tiểu sử về Oát: “Có lẽ trong thời gian học việc cậu chưa đi dạo đến hai lần trên các đường phố Luân Đôn”Năm ấy Oát vừa 19 tuổi.Sau một năm, với vốn kiến thức và tay nghề đã rèn rũa được, Oát trở về Glaxgâu, mở một xưởng cơ khí và sau đó làm phụ tá chế tạo dụng cụ ở trường đại học. Lúc này Oát nổi tiếng là nhà chế tạo dụng cụ lành nghề.
Anh ham học vô cùng, vẫn thường xuyên tự học. Ngoài ra, anh còn tranh thủ đến nghe giảng ở trường đại học về lí thuyết nhiệt học và nhiều môn học khác. Chẳng bao lâu Oát đã nắm vững ba ngoại ngữ và làm mọi người phải kinh ngạc về những hiểu biết sâu sắc của anh trong các lãnh vực triết học, thơ ca, nhạc họa và điêu khắc.
Phòng anh trở thành nơi tụ họp thường xuyên của các nhà khoa học. Họ tranh luận, bàn bạc, thuyết trình, giới thiệu. Chính trong thời đó Oát tích lũy một khối lượng kiến thức khổng lồ cần thiết cho mục đích cuộc đời mình.Anh thường nói với bạn bè : “ Chúng ta không thể lệ thuộc vào thiên nhiên mà phải chiến thắng thiên nhiên !”* Năm 1764 là một năm có ý nghĩa hết sức đặc biệt trong cuộc đời của Oát.
Trường Đại học Glaxgâu giao cho Oát sửa chữa một mẫu máy hơi nước do Niucômen thiết kế. Khi bắt tay vào việc, Oát gặp một loạt khó khăn. Như thường lệ ông suy nghĩ về những vấn đề mấu chốt của mô hình này và chẳng mấy chốc ông nhận ra rằng, cốt lõi của tất thảy không phải là cái mô hình ương bướng kia mà là bản thân những nguyên lí làm cơ sở cho việc chế tạo cái máy đó.- Ừ, giá như bây giờ đúc kết được tất cả những kinh nghiệm thành công hay thất bại của những người đi trước, rút ra những nguyên lí cơ sở của máy thì chắc vấn đề sẽ trở nên sáng rõ.
Ông nhớ lại những mẫu máy của Papanh, Xavơri, Ghêric, Pônzunôp, thậm chí của cả Hêrôn sống cách ta khoảng 2000 năm về trước. Ông đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm và đối chiếu với lí thuyết về nhiệt hồi đó, nhưng suốt một năm ròng, tốn bao nhiêu mồ hôi và sức lực, máy hơi nước Niucômen vẫn không cải tiến được tí nào.Thế rồi, bỗng một hôm... Nhớ lại ngày hôm ấy, Oát viết “ “Vào một ngày thứ bảy (năm 1765) diệu kì, tôi đang dạo bước …Mọi ý nghĩ của tôi tập trung vào giải quyết vấn đề làm tôi bứt rứt. Trong óc tôi bỗng loé lên ý nghĩ : vì hơi nước là vật đàn hồi cho nên nó sẽ choán đầy cả khoảng chân không.
Nếu dùng một ống nối xilanh với thiết bị xả đặt ở bên ngoài thì hơi nước sẽ luồn vào đó. Chính tại chỗ này ta có thể làm ngưng hơi nước mà không cần làm lạnh xilanh. Lúc đến Gônphơhaozơ, trong óc tôi đã có biểu tượng đầy đủ về những cái cần làm “.Đấy, ý nghĩ cải tiến máy hơi nước Niucômen đã ra đời như thế đấy.
Trong máy Niucômen, người ta tưới nước lạnh vào xilanh để làm ngưng hơi. Bây giờ phải tách bình ngưng hơi ra khỏi xilanh và để cho áp lực của hơi nước làm chạy máy chứ không dùng áp lực của không khí.Việc phát minh ra bình ngưng hơi tách riêng tuy đơn giản nhưng nó là phát minh vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử của máy hơi nước.
Nó đã làm cho Oát giờ đây trở thành niềm tự hào của dân tộc ông và đồng bào ông.Ngay sau khi đi chơi về, Oát bắt tay ngay vào thí nghiệm và làm một số mô hình chứng minh những ý nghĩ vừa xuất hiện là đứng đắn.
Ngày nay, khách tham quan có thể nhìn tận mắt những mô hình này tại Viện bảo tàng khoa học Luân Đôn.Ngày 9 tháng Giêng năm 1769, ông đăng kí và nhận bằng phát minh : “Các phương pháp giảm tiêu phí hơi nước và do đó giảm nhiên liệu trong các máy đốt bằng lửa “.Lúc này, tên tuổi Oát được nhiều người biết đến. Oát quyết định bắt tay vào việc chế tạo máy hơi nước và ước mơ sẽ có ngày điều khiển một xưởng lớn sản xuất toàn bộ các thiết bị về máy hơi nước.
Được thành công cổ vũ, Oát làm việc quên ăn, quên ngủ. Ông đã sáng tạo ra trên hai mươi bộ phận trong máy hơi nước. Trước đây người ta hoàn toàn không đo được mực nước nồi hơi, có nhiều lúc nước cạn cháy cả nồi. Oát nghĩ ra một “ống mực nước” dựa trên nguyên tắc bình thông nhau, cho phép thường xuyên theo dõi được mực nước. Trước đây người ta không điều khiển được áp suất trong nồi hơi mà chỉ biết dùng nắp hơi bảo hiểm, mỗi khi áp suất trong nồi tăng tới mức nguy hiểm, nắp bảo hiểm sẽ cho hơi thoát ra ngoài, tránh được nguy cơ nổ nồi. Oát đã chế ra một “đồng hồ đo áp suất hơi” trong nồi. Cũng chính Oát đã nghĩ raviệc sử dụng “bánh xe đà” để điều hòa tốc độ của máy hơi.
Một sáng kiến quan trọng nữa là “máy tiết chế Oát” gồm một khung quay hình thoi, hai đỉnh có hai quả cầu, nhằm giữ cho số vòng quay của chiếc máy không thay đổiNhờ những sáng kiến tài tình của Oat, chiếc máy đầu tiên của ông hơn hẳn máy Niucômen về mặt tiết kiệm nhiên liệu, nên nó nhanh chóng được sử dụng ở các mỏ và dần dần thay thế hẳn máy Niucômen ở khắp mọi nơiTuy nhiên, cũng như những máy hơi nước trước đó, máy theo kiểu cấu tạo đầu tiên của Oát cũng chỉ dùng được để bơm nước, hay kéo bể ở lò luyện kim là cùng, nghĩ là chỉ dùng được trong trường hợp các bộ phận thừa hành của máy có chuyển động đi về.
Vì thế nó không thể thể là loại động cơ nhiệt vạn năng. Đã đến lúc phải có chiếc máy tạo chuyển động tròn mới có tác dụng ở mọi ngành sản xuấtNhiệm vụ ấy đè nặng lên vai Oát và ông đã giải quyết thành công mĩ mãn, xứng đáng được mệnh danh là “Cha đẻ của máy hơi nước”Với lòng mong mỏi hoàn thiện máy hơi nước, Oát quyết định đi Luân Đôn…
Một buổi chiều, đang ngồi trầm ngâm trước bàn giải khát trong khách sạn, Oát bỗng thấy một người trẻ tuổi, ăn mặc lịch sự tiến lại gần.- Xin chào ông, rất hân hạnh được làm quen với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là Buntơn, một nhà doanh nghiệp ở Bơcminhgam.- Còn tôi là Oát…- Vâng, tôi biết, ông là nhà phát minh tiếng tăm. Tôi muốn được hợp tác với ông vì tấm lòng ngưỡng mộ…
Về phần Oát, điều kiện quan trọng nhất với ông chỉ là có điều kiện tiếp tục những thí nghiệm hoàn thiện máy hơi nước, còn những vấn đề khác ông không quan tâm nhiều lắmThế là bắt đầu từ hôm đó Oát trở thành người phụ trách kĩ thuật trong những xưởng máy của Buntơn.
Được rộng đường hoạt động, Oát tiếp tục những thí nghiệm dang dở. Sau nhiều lần thất bại và những đêm thao thức, Oát đã thành công. Ông bố trí thêm một hệ thống những bộ phận ăn khớp với nhau để biến chuyển động thẳng thành chuyển động quay: cần của pittông, được nối với một thanh thép gọi là biên.
Biên lại nối với tay quay. Đầu tay quay gắn liền với trục quay của vô lăng. Ngoài ra, ở chỗ pittông nối với biên, ông đặt thêm một bộ phận lui tới dọc theo một khe trượt song song với cần pittông. Nhờ bộ phận này nên biên có thể chuyển động chếch mà không làm thanh trượt dao động sang hai bên.
Như vậy, chuyển động thẳng của pittông được chuyển qua biên và biến đổi thành chuyển động quay của vô lăng.Thế là chiếc máy hơi nước hoàn thiện đầu tiên, kết hợp tất cả kinh nghiệm của những người đi trước và những sáng kiến thiên tài của Oát đã ra đời.
Trong kiểu máy này có đủ những yếu tố cơ bản của một máy hơi nước như chúng ta thấy ngày nay. So với kiểu máy của Niucômen, nó khác xa một trời một vựcKết quả thử đã vượt xa cả sự mong đợi.
Máy chỉ cần 3 kg than để sản xuất ra một “mã lực”, trong điều khi kiểu máy của Niucômen phải xài gần … hai tạ.
Máy cũng gọn nhẹ, có thể sử dụng ở bất cứ đâu.Oát đăng ký và nhận bằng phát minh về chiếc máy này năm 1784Phấn khởi trước thành công rực rỡ, Oát tiếp tục nghĩ ra thêm hàng loạt kiểu máy khác nữa, nào là máy cưa đỉa, nào là búa máy, rồi máy cán, máy mài,…
Công ti “Oát và Buntơn” chuyển hẳn sang sản xuất máy hơi nước vạn năng, và chỉ trong ít năm, những kiểu máy “hiện đại” mang nhãn hiệu “Oát và Biutơn” đã tràn ngập khắp thị trường Châu AuVới khối óc thông minh và đôi bàn tay khéo léo của Oát, lịch sử kĩ thuật đã thật sự bước vào một thời đại mới: thời đại máy hơi nước
Đánh giá những đóng góp xuất sắc của Oát đối với các động cơ nhiệt hiện đại, chúng ta có thể nói rằng, Oát không hoàn thiện. Mà thực tế đã phát minh ra máy hơi nước
Ông được bầu làm hội viên Hội khoa học hoàng gia và Viện sĩ nhiều Viện hàn lâm khoa học nước ngoàiNhững năm cuối đời, ông đi du lịch khắp nơi, thường xuyên về thăm xóm chài nghèo, dòng sông Cơlaiđơ và thị trấn Grinốc, thường xuyên trao đổi thư từ với nhiều người và tận tình giúp đỡ các nhà sáng chế phát minh trẻ tuổiThật kì lạ, càng về già ông càng sáng suốt và khỏe mạnh. Bộ óc ông lúc nào cũng tỉnh táo, minh mẫnVà, chỉ một lần, ông cảm thấy hơi khó ở.
Ông hiểu rằng cái chết đã đến, và ông đón nhận nó một cách thanh thản, bởi lẽ ông hiểu rằng ông đã cống hiến hết sức mình cho nhân loại.
ANDRE MARIE AMPERE:NHỮNG CỐNG HIẾN KHOA HỌC
Ông sinh ra ở Lyon, gần với Poleymieux - quê của cha ông. Ông có tính tò mò và lòng say mê theo đuổi kiến thức từ khi còn rất nhỏ, người ta nói rằng ông đã đưa ra lời giải cho các tổng số học lớn bằng cách sử dụng các viên sỏi và mẩu bánh bích quy trước khi biết con số. Cha ông dạy ông tiếng Latinh, nhưng sau đó đã bỏ khi nhận thấy khả năng và khuynh hướng nghiên cứu toán học của con trai. Tuy vậy chàng thanh niên trẻ tuổi Ampère sau này đã học lại tiếng Latinh để giúp ông hiểu được các tác phẩm của Euler và Bernoulli. Cuối đời ông đã nói rằng ông biết nhiều nhất về toán học khi ông 18 tuổi, tuy vậy ông cũng đọc rất nhiều sách vở của các lĩnh vực khác như lịch sử, các ghi chép trong các chuyến du hành, thơ ca, triết học vàkhoa học tự nhiên.
André-Marie Ampère (20 tháng 1, 1775 – 10 tháng 6, 1836) là nhà vật lý người Pháp và là một trong những nhà phát minh ra điện từ trường. Đơn vị đo cường độ dòng điện được mang tên ông là ampere.
Cuộc đời
Khi Lyon bị rơi vào tay quân đội cách mạng năm 1793, cha của Ampère, người giữ chức vụ juge de paix, đã chống lại một cách kiên quyết cuộc cách mạng này, do đó đã bị bỏ tù và sau đó đã chết trên đoạn đầu đài. Sự kiện này gây ấn tượng sâu sắc đối với tâm hồn nhạy cảm của Andre-Marie, trong vài năm sau đó ông đã chìm trong sự lãnh cảm. Sau đó sở thích của ông đã được đánh thức bởi một số bức thư về thực vật học khi chúng đến tay ông, và từ thực vật học ông đã chuyển sang nghiên cứu thơ ca cổ điển, và tự mình viết những bài thơ.
Năm 1796 ông gặp Julie Carron, và họ đã gắn bó với nhau, quá trình gặp gỡ của hai người đã được ông ghi chép lại rất chất phác trong tạp chí (Amorum). Năm 1799 họ cưới nhau. Vào khoảng năm 1796 Ampère giảng dạy toán học, hóa học và ngoại ngữ tại Lyon; năm 1801 ông chuyển tới Bourg, làm giáo sư môn vật lý và hóa học, để lại người vợ ốm đau và con nhỏ (là Jean Jacques Ampère) ở Lyon. Vợ ông mất năm 1804, ông đã không bao giờ lấy lại được thăng bằng vì mất mát này. Cùng năm này ông được bổ nhiệm làm giáo sư môn toán của trường trung học (lycée) ở Lyon.
Bài báo nhỏ của ông Considérations sur la théorie mathématique du jeu, trong đó miêu tả những khả năng thắng bạc thay vì chơi may rủi, được xuất bản năm 1802 và đã giành được sự chú ý củaJean Baptiste Joseph Delambre, là người đã giới thiệu ông làm giáo sư ở Lyon, và sau đó một thời gian (năm 1804) là vị trí trợ giảng ở trường Bách khoa Paris, ở đó ông được bầu là giáo sư toán năm 1809. Tại đây ông tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu khoa học và các nghiên cứu đa ngành với một sự chuyên cần không suy giảm. Ông được kết nạp làm thành viên của Viện Hàn lâm Pháp năm 1814.
Ông đã thiết lập mối quan hệ giữa điện trường và từ trường, và trong phát triển khoa học về điện từ trường, hay như ông gọi đó là điện động lực học, là lĩnh vực tên tuổi của Ampère đã được công nhận. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1820 ông được biết về phát minh của Hans Christian Ørstedrằng kim nam châm chịu tác động của dòng điện. Vào ngày 18 tháng 9 cùng năm ông gửi một báo cáo tới Viện hàn lâm, báo cáo này chứa đựng những bình luận hoàn thiện hơn về hiện tượng này.
Toàn bộ lĩnh vực này đã được mở ra khi ông khảo sát và phát biểu công thức toán học không những để giải thích hiện tượng điện từ trường mà còn dự đoán nhiều sự kiện và hiện tượng mới.
Các bài báo gốc của ông về đề tài này có thể tìm thấy trong Ann. Chim. Phys. trong khoảng từ năm 1820 đến năm 1828. Sau đó ông đã viết bài Essai sur la philosophie des sciences rất có giá trị. Ngoài ra, ông đã viết một loạt các luận văn và bài báo, trong đó có hai bài về tích phân của các phương trình vi phân (Jour. École Polytechn. x., xi.).
Ông mất ở Marseille và được hỏa táng ở Cimetière de Montmartre, Paris. Sự hào hiệp và tính cách đơn giản của ông được thể hiện trong cuốn sách của ông Journal et correspondance (Paris, 1872). Bốn mươi lăm năm sau, các nhà toán học đã công nhận ông.
Đóng góp
Cống hiến của Ampère trong khoa học rất lớn.
Là một nhà toán học hàng đầu, ông đã chỉ ra cách sử dụng ngành khoa học này như thế nào. Ông coi toán học là một ngành của triết học, là cơ sở để đưa các phát minh trong vật lý trở thành các công thức định lượng. Vai trò của toán học là nâng cao tính chính xác, cũng như một phương tiện thực nghiệm của vật lý hiện đại.
Là một nhà tiên đoán vĩ đại, ông đã đưa các tư tưởng khoa học, từ đó đã mở ra các hướng nghiên cứu và ứng dụng khoa học rộng lớn. Tên tuổi của ông được xếp ngang hàng với các nhà bác học vĩ đại khác của nước Pháp.
Ampere có nhiều đóng góp trong lĩnh vực toán học, vật lý, hóa học, triết học. Trong toán học ông nghiên cứu lý thuyết xác suất, giải tích và ứng dụng toán học vào vật lý.
Công trình của Ampère trong vật lý đạt được hàng loạt các thành tựu vĩ đại. Dựa vào phát hiện của Ørsted năm 1820 về tác dụng của dòng địện lên kim nam châm, ông đã nghiên cứu bằng thực nghiệm, tìm ra lực điện từ và phát biểu thành định luật mang tên ông (Xem định luật Ampere). Lực điện từ là một trong các lực cơ bản của tự nhiên, cơ sở của điện động lực học. Định luật Ampère cho phép xác định chiều và trị số của lực điện từ, là cơ sở chế tạo động cơ điện. Công thức Ampère và định luật Faraday là hai cơ sở chính để James Clerk Maxwell xây dựng nên lý thuyết trường điện từ.
Ampère đã phát biểu qui tắc xác định từ trường của dòng điện (qui tắc vặn nút chai), tiên đoán dòng điện phân tử để giải thích bản chất từ của vật liệu sắt từ. Sau Ampère, vật liệu sắt từ trở nên rất phổ biến.
Trong hoá học, ông đã tìm ra định luật sau này gọi là định luật Avogadro-Ampère. Ông còn là một nhà thực nghiệm tài ba. Ông đã thiết kế và tự làm nhiều thiết bị phục vụ cho các thí nghiệm của mình. Những thiết bị này đã trở thành nền tảng cho các dụng cụ đo điện (như ampe kế, vôn kế,điện trở kế...) Ông còn là cha đẻ của phần tử vô hướng, của từ xuyến và của nam châm điện.